Sản xuất và tiêu dùng bền vững

Thứ tư, 30/10/2024 | 19:13 GMT+7

Tin hoạt động

Phát triển vật liệu xây dựng không nung: Đầu tư cho tương lai

17/08/2010

Hơn nữa, đầu tư dây chuyền sản xuất VLXKN công suất lớn chỉ bằng 45-60% so với suất đầu tư dây chuyền gạch đất sét nung bằng lò tuy nen. Diện tích xây dựng các cơ sở sản xuất VLXKN tính trên công suất thiết kế cũng chỉ bằng 50-70% so với cơ sở sản xuất gạch xây từ đất sét nung.


Sản xuất gạch không nung tại Công ty TNHH một thành viên Nam Huy (Lào Cai) (Ảnh: Internet)

Tiết kiệm hàng triệu mét khối đất


Theo quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng đến năm 2020, nhu cầu sử dụng vật liệu xây tương ứng khoảng 42 tỷ viên gạch quy chuẩn. Nếu chỉ dùng gạch đất sét nung, năm 2020 cả nước sẽ mất khoảng 2.800-3.000ha đất nông nghiệp; tiêu tốn 5,3-5,6 triệu tấn than, thải ra khoảng 17 triệu tấn khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính. Vì vậy, việc thay thế gạch đất sét nung bằng VLXKN có ưu điểm lớn nhất là hạn chế được các tác động bất lợi trên, bảo vệ môi trường, an ninh lương thực và tạo việc làm cho nông dân. Ngoài ra, với lợi thế về công nghệ, VLXKN còn biến một phần đáng kể phế thải của các ngành nhiệt điện, luyện kim, khai khoáng... thành vật liệu (ước tính đến năm 2020 lượng phế thải tro, xỉ khoảng 45 triệu tấn sẽ mất khoảng 1.100ha mặt bằng để chứa), đồng thời tác động tích cực đến một số lĩnh vực và chương trình khác như kích cầu tiêu thụ hàng triệu tấn xi măng mỗi năm; giảm đáng kể lượng tiêu hao than; tiết kiệm điện trong sử dụng điều hòa nhiệt độ nhờ cách nhiệt tốt; tạo điều kiện chuyển đổi một số doanh nghiệp sản xuất gạch đất sét nung bằng lò thủ công sang sản xuất VLXKN. Nhờ những ưu điểm trên, sử dụng VLXKN đã trở thành xu thế chung của các nước trên thế giới. Ở Trung Quốc, đến năm 2010 vật liệu xây kiểu mới phải chiếm tỷ lệ hơn 55%; ở Anh, VLXKN đang chiếm 60% trong tổng số vật liệu xây.

Cần ưu đãi đầu tư để sản xuất VLXKN

Theo Bộ Xây dựng, cả nước hiện có khoảng 800 cơ sở sản xuất VLXKN, với tổng công suất 1,6 tỷ viên quy tiêu chuẩn/năm, chiếm 8% tổng số vật liệu xây. Trong đó có 31 dây chuyền công suất vừa và lớn với tổng công suất 552 triệu viên quy tiêu chuẩn/năm (chiếm 33% tổng công suất VLXKN). Số còn lại (67%) là các dây chuyền có công suất nhỏ, quy mô hộ gia đình. Việc phát triển sản xuất và sử dụng VLXKN chưa đạt mục tiêu bởi quy cách viên gạch xây ở một số dây chuyền sản xuất cũ chưa hợp lý, kích thước và khối lượng quá lớn, gây khó khăn cho thi công. Nhận thức trong xã hội về sử dụng VLXKN còn hạn chế, nên một số ưu điểm, nhất là tính chất nhẹ, cách nhiệt của VLXKN chưa được các nhà thiết kế, chủ đầu tư khai thác. Một số loại VLXKN có tính năng kỹ thuật cao, nhưng giá thành chưa cạnh tranh được với gạch đất sét nung. Trong khi đó cơ chế, chính sách chưa đủ tạo điều kiện để thúc đẩy sản xuất và sử dụng VLXKN...

Để đạt mục tiêu sử dụng VLXKN thay thế gạch đất sét nung với tỉ lệ 20-25% vào năm 2015 và 30-40% vào năm 2020, Bộ Xây dựng đề nghị áp dụng nhiều chính sách ưu đãi với dự án phát triển VLXKN. Chẳng hạn, tổ chức, cá nhân được miễn tiền thuê đất, giảm tiền sử dụng đất khi đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất VLXKN; được ưu đãi thuế nhập khẩu thiết bị, nguyên liệu phục vụ sản xuất gạch nhẹ; được áp dụng thuế suất 5% thuế giá trị gia tăng khi bán sản phẩm; được ưu tiên vay từ nguồn vốn ưu đãi của các tổ chức quốc tế, hỗ trợ 50% vốn chuyển giao công nghệ. Mặt khác, sẽ tăng thuế khai thác tài nguyên đất sét và áp dụng cơ chế bắt buộc công trình sử dụng vốn ngân sách phải sử dụng ít nhất 50% VLXKN loại nhẹ. Ước tính nhu cầu vốn đầu tư phát triển VLXKN khoảng 5.200-6.500 tỷ đồng. Với những ưu thế vượt trội của VLXKN, có thể nói đầu tư cho loại vật liệu này chính là đầu tư cho tương lai./.

Vật liệu xây không nung được tạo ra từ các nguyên liệu như xi măng, cát, sỏi, xỉ than, đá mạt… không qua công đoạn nung đốt. Vật liệu xây không nung tại Việt Nam hiện nay được chia thành ba loại: gạch xi măng, chiếm hơn 80% với khoảng 800 dây chuyền sản xuất, hàng năm cung cấp 550 triệu viên gạch; gạch bêtông nhẹ, chiếm khoảng 10%, bao gồm bêtông bọt và bêtông chưng áp với khoảng 7 dây chuyền và 7 dự án đang triển khai đầu tư tại một số tỉnh.