Công ty cổ phần Phân lân Ninh Bình: Áp dụng công nghệ sản xuất mới thân thiện với môi trường
Giám đốc Công ty Phạm Mạnh Ninh cho biết, để giải quyết tình trạng ô nhiễm, từ nhiều năm nay Công ty đã tổ chức triển khai đồng bộ các giải pháp: Xử lý khí thải bằng cách đầu tư chiều sâu đổi mới, cải tạo thiết bị, cải tiến công nghệ vận hành lò cao sản xuất phân lân nung chảy, cải tạo hệ Sicon tách bụi khô, các tháp hấp thụ khí bằng nước áp lực cao, tháp tách nước.
Nhờ áp dụng những biện pháp và công nghệ mới như trên, khí bụi phát sinh tại lò cao được tách tại các Sicon (hệ thống lắng bụi khô), qua tháp hấp thụ khí bằng nước áp lực cao, tách nước và được đưa vào lò đốt khí CO để đốt triệt để,. Từ đó, nhiệt trong quá trình đốt được tận thu để sấy gió nóng vào lò cao, giảm định mức tiêu hao than, sau đó khí mới được thải ra ngoài môi trường qua ống khói 43 m.
Cùng với đó, Công ty đã cải tạo các thiết bị công nghệ nhằm thu hồi triệt để bụi phát sinh trong sản xuất như dây chuyền sấy nghiền lân nung chảy, bụi ở khí lò cao. Đồng thời, cải tạo mặt bằng bến bãi, bê tông hoá trên 80% diện tích mặt bằng của Công ty để thuận tiện trong việc chứa nguyên, nhiên liệu, vận chuyển và giảm thiểu bụi phát sinh, môi trường sản xuất, xây dựng các bồn cây xanh tạo cảnh quan môi trường xanh - sạch - đẹp.
Với lượng nước thải phát sinh trong sản xuất khoảng 3.700m3/ ngày Công ty đã sử dụng lượng vôi khoảng 2 tấn/ngày, để tôi, hòa thành sữa vôi nhằm xử lý triệt để HF và các chất độc hại có trong nước thải, sau đó qua hệ thống lắng đọng, đảm bảo nước sau khi xử lý thải ra môi trường đạt tiêu chuẩn cho phép. Công ty đã xây dựng hệ thống bể lắng bùn, tận thu hết chất thải rắn để tái chế thành nguyên liệu cho sản xuất, giảm chi phí sản xuất và tạo ra lợi nhuận cho công ty. Bên cạnh đó, đối với lượng chất thải rắn khoảng 100 tấn/ngày(quặng apatit, secpentin và bột thải ở lò cao), Công ty có hệ thống thu gom và xử lý tái sử dụng 100% chất thải rắn thành nhiên liệu cấp cho sản xuất.
Kết quả khảo sát lấy mẫu phân tích các chỉ tiêu môi trường gần đây cho thấy, đối với khu vực nhà máy, tiếng ồn, bụi và hơi khí độc đã giảm nhiều lần so với trước đây. Cụ thể, so với năm 1996, hàm lượng bụi tổng hợp giảm 10 lần, hàm lượng SO2 giảm 4-10 lần, hàm lượng CO giảm 4 - 7 lần. Đối với khu vực lân cận, không còn hiện tượng ô nhiễm hơi, khí độc, mức độ nhiễm bụi cũng giảm đi nhiều và nằm trong tiêu chuẩn cho phép của khu dân cư. Nồng độ các hơi, khí độc CO, SO2, NO2, H2S, NH3 thấp, đảm bảo yêu cầu tiêu chuẩn cho phép về giới hạn nồng độ ô nhiễm. Hàm lượng bụi tổng hợp giảm 8-10 lần, hàm lượng khí SO2 giảm 2-5 lần, hàm lượng NO2 giảm 3-5 lần, hàm lượng CO2 giảm 3-4 lần, hàm lượng CO trung bình giảm 5 lần.