Tiềm năng rất lớn
Kết quả kiểm toán năng lượng tại các đơn vị trong Tập đoàn Công nghiệp
Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) cho thấy, riêng lượng điện dùng
cho sản xuất than hầm lò là 263.812.173 kWh/năm. Nếu áp dụng các giải
pháp hợp lý, có thể tiết kiệm khoảng 28.465.333 kWh/năm, tương đương
25,7 tỉ đồng/năm. Điện tiêu thụ cho sản xuất than lộ thiên là 156,919
triệu kWh/năm, trong đó, có thể tiết kiệm khoảng 11,1 triệu kWh/năm
(tương đương 10,17 tỉ đồng/năm). Điện tiêu thụ cho sàng tuyển khoảng
49.023.319 kWh/năm, tiềm năng tiết kiệm có thể đạt 4,9 triệu kWh/năm
(tương đương 4,48 tỉ đồng/năm).
Với các đơn vị sản xuất cơ khí thuộc Vinacomin, tiềm năng tiết kiệm vào
khoảng 10-12% (khoảng 1,8 triệu kWh/năm, tương đương 1,82 tỉ đồng/năm);
các đơn vị sản xuất khai thác khoáng sản có thể tiết kiệm tới 7% điện
tiêu thụ; các đơn vị vận tải kinh doanh, nếu sử dụng cây xăng di động
cấp nhiên liệu cho các xe bánh xích tại khai trường, mỗi năm có thể
tiết kiệm 1% nhiên liệu tiêu thụ (1,9 triệu lít dầu và 50.000 lít xăng).
Các ngành giấy, xi măng, sắt thép nếu tận dụng triệt để các giải pháp cũng có thể tiết kiệm 25 - 40% năng lượng tiêu thụ.
Cần hướng tới giải pháp hiệu quả và bền vững
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp (DN) đều đã đạt hiệu quả nhất định
từ các giải pháp tiết kiệm năng lượng (TKNL) đơn giản như: cải tạo hệ
thống chiếu sáng, giao chỉ tiêu sử dụng điện, lắp biến tần cho thiết
bị... Tuy nhiên, theo các chuyên gia, việc TKNL phải có tính hệ thống
và bền vững thì mới khai thác hết tiềm năng.
Cụ thể, áp dụng đồng bộ các giải pháp thiết kế; sử dụng các vật liệu
TKNL; lắp đặt và vận hành các trang thiết bị có hiệu suất năng lượng
cao; Tận dụng nhiệt khói thải lò hơi để gia nhiệt sơ bộ cho các lưu
chất khác như nước cấp, dầu FO đốt lò để làm giảm năng lượng cho quá
trình sản xuất. Bọc bảo ôn đường ống hơi để tránh thất thoát nhiệt;
những động cơ hoạt động trong tình trạng non tải cần được lắp inverter
để giảm tiêu thụ điện năng mà vẫn duy trì được các thông số kỹ thuật.
Thường xuyên bảo trì, bảo dưỡng cho động cơ, máy nghiền để tăng tuổi
thọ, giảm tiêu hao năng lượng cho động cơ; có cán bộ chuyên môn quản lý
năng lượng… Nếu áp dụng đồng bộ các giải pháp có thể có thể tiết kiệm
30 - 40% năng lượng tiêu thụ trong khi mức vốn đầu tư này không quá
cao, thời gian thu hồi vốn nhanh. Điển hình là Công ty Giấy Thiên Trí
(Hóc Môn - TP.HCM) đầu tư gần 150 triệu đồng cho các giải pháp TKNL.
Sau 1 năm, công ty đã tiết kiệm được 41,24 tấn dầu quy đổi (TOE), tương
đương gần 110 triệu đồng và giảm phát thải hơn 180 tấn CO2.
Tuy nhiên, vướng mắc lớn nhất của các DN hiện nay là huy động vốn để
đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị theo hướng TKNL. Bên cạnh đó, việc
quy trách nhiệm và chế tài xử lý còn thiếu và yếu. Vì vậy, ngoài việc
tuyên truyền rộng rãi, tăng cường tư vấn để người dân và DN nắm vững
các giải pháp TKNL, Chính phủ phải có chế tài xử lý nghiêm minh, kiểm
tra, giám sát tiêu thụ điện ở các DN. Có chính sách giá bán điện hợp lý
theo giờ cao điểm, thấp điểm; giá điện theo mùa và theo nhóm đối tượng
sử dụng. Từng bước loại bỏ rào cản về thể chế, cơ chế tài chính cho đầu
tư năng lượng mới và tái tạo, khai thác hiệu quả nguồn thu từ cơ chế
phát triển sạch CDM. Đẩy mạnh tăng cường hợp tác quốc tế, xây dựng
chính sách, giải pháp thích hợp cho chương trình sử dụng điện tiết kiệm
và hiệu quả. Áp dụng các biện pháp khuyến khích và bắt buộc đổi mới
công nghệ, thiết bị của các ngành sử dụng nhiều điện như thép, xi măng,
hóa chất...; cấm nhập khẩu các thiết bị, máy móc, dây chuyền, công nghệ
lạc hậu, tiêu tốn nhiều điện năng… Làm được như vậy, DN không chỉ tiết
kiệm chi phí mà còn nâng cao được năng suất, chất lượng, hạ được giá
thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường… Tiếp tục đào
tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ làm quản lý năng lượng.