Sản xuất và tiêu dùng bền vững

Thứ bảy, 23/11/2024 | 11:33 GMT+7

Tin hoạt động

Sản xuất sạch hơn trong khai thác mỏ: Giảm ô nhiễm, tiết kiệm tiền

04/01/2013

Tăng lợi nhuận

Có thế nói, trong SXSH, việc thay đổi công nghệ, phương tiện thiết bị tiên tiến nhằm tạo ra sự biến đổi tích cực về “chất” trong hoạt động sản xuất. Đây là động lực cơ bản để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, giảm thiểu các tác động tiêu cực như độ rung, ồn, bụi, khí độc hại ... làm suy  giảm môi trường, giảm các sự cố, tai nạn lao động, các tai biến môi trường.

Chương trình SXSH chỉ có thể thành công khi có sự cam kết mạnh mẽ từ phía lãnh đạo doanh nghiệp. Chương trình này đòi hỏi phải có sự tham gia và giám sát trực tiếp của Ban Giám đốc mỏ với một thái độ nghiêm túc từ khâu tổ chức tuyên truyền, giáo dục cán bộ công nhân; nghiên cứu phân tích để lựa chọn giải pháp đến khâu đầu tư phương tiện thiết bị, triển khai thực hiện; theo dõi, rút kinh nghiệm để duy trì và phát triển,...

Trước đây, công đoạn sàng tuyển than tại các mỏ than Việt Nam hầu hết là áp dụng công nghệ sàng khô tách cám than nguyên khai, nhặt tay thủ công và loại bỏ bớt đá thải tại mỏ. Vì vậy, các mỏ thường phải tổ chức nhặt tay, sàng đi sàng lại nhiều lần làm tăng chi phí sản xuất, vỡ vụn than cục.     

Hiện nay, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã triển khai thực hiện thành công dây chuyền công nghệ tuyển than trong bã sàng cho các mỏ than vùng Quảng Ninh bằng công nghệ huyền phù kiểu tang quay và xây dựng, hoàn thiện công nghệ nâng cao chất lượng than cho các mỏ bằng "huyền phù tự sinh". Công nghệ mới này có tính ưu việt hơn hẳn, ngoài lượng than được tận thu triệt để tăng từ 20-30% sản lượng than so với công nghệ cũ, giải pháp còn giúp tăng năng suất lao động do được cơ giới hóa và tự động hóa cũng như giảm ô nhiễm môi trường và bệnh nghề nghiệp cho người lao động.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ chuyển giao công nghệ cho các mỏ có dây chuyền tuyển than với các module công suất 250.000 tấn/năm đến 650.000 tấn/năm. Tổng công suất các dây chuyền tuyển than áp dụng theo công nghệ tuyển tang quay được thiết kế là 5.600.000 tấn/năm, chiếm hơn 12% tổng sản lượng khai thác than toàn ngành. Trong đó, công nghệ mới đã được ứng dụng tại nhiều mỏ than như: Than Cọc 6, Núi Béo, Đèo Nai, Quang Hanh, Hà Lầm...làm lợi trung bình mỗi năm cho ngành than hơn 5 tỷ đồng.

Hành động cho một thay đổi lớn

Hiện nay, Quảng Ninh có khoảng 5 mỏ lộ thiên với công suất trên dưới 2 triệu tấn than nguyên khai/năm, 15 mỏ lộ thiên vừa là công trường khai thác lộ thiên do các công ty khai thác hầm lò quản lý với công suất 100.000 – 700.000 tấn than nguyên khai.

Sử dụng thiết bị cỡ lớn là một giải pháp làm giảm mật độ các nguồn gây bụi và phát thải khí độc hại trên mỏ, dẫn đến làm hạn chế sự phát thải bụi và khí độc hại vào môi trường. Chủ trương đầu tư bổ sung và thay thế thiết bị xúc bóc và vận tải cỡ lớn của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam  thời gian gần đây là một chủ trương đúng đắn không chỉ về mặt kinh tế kỹ thuật mà cả về bảo vệ môi trường. Một biện pháp hiệu quả và đơn giản để làm giảm lượng bụi trong quá trình xúc bốc đó là thường xuyên tưới nước lên đống đá.

Nhìn nhận trong năm 2012, Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam  giao Công ty TNHH MTV Môi trường Vinacomin khởi công xây dựng mới 18 trạm xử lý nước thải mỏ, trong đó có 4 trạm xử lý nước thải mỏ lộ thiên và 14 trạm xử lý nước thải hầm lò; hệ thống rửa ô tô tuyến Núi Béo - cảng Nam Cầu Trắng; hệ thống rửa toa xe tuyến Cẩm Phả - Cửa Ông (Công ty Tuyển than Cửa Ông); cải tạo phục hồi môi trường bãi thải Công ty 35 (Tổng Công ty Đông Bắc), bãi thải vỉa 7, vỉa 8 Công ty Cổ phần than Hà Tu…

Trước đây, hầu hết các mỏ than lộ thiên trong Vinacomin sử dụng hệ thống bãi thải ngoài với công nghệ đổ thải bãi thải cao nên thường gây ra các hiện tượng không ổn định. Để ổn định bãi thải, Vinacomin đã thay đổi công nghệ đổ thải, trong đó các bãi thải mới sẽ phải được thiết kế theo dạng bãi thải phân tầng, các bãi thải chưa đảm bảo sẽ được cải tạo, san cắt tầng. Công nghệ này đã được ứng dụng cho cải tạo các bãi thải V.7, 8 Hà Tu, lộ vỉa 14 Hà Tu (cũ), Ngã Hai, Chính Bắc - Núi Béo, Nam Lộ Phong - Hà Tu, Khe Rè - Cọc Sáu. Bên cạnh đó,  nhằm ổn định sườn bãi thải, chống sạt lở đất đá, giải pháp sử dụng cỏ vetiver đã được áp dụng thử nghiệm từ năm 2007 tại sườn phía Tây bãi thải Chính Bắc - Công ty CP Than Núi Béo. Sau thời gian trồng hơn 1 năm, bộ rễ cỏ có chiều dài 1,2m -1,4m, hệ rễ chùm, tạo thành bộ lưới sinh học giữ cho đất đá trên sườn bãi thải không bị sạt lở.

Các công nghệ xử lý nước thải được áp dụng có sự thay đổi lớn theo hướng ngày càng tiến bộ và hiện đại, từ hố lắng kết hợp sữa vôi đến phương pháp hoá - lý và lọc cơ học có áp lực. Các trạm xử lý nước thải thuộc thế hệ đầu tiên được áp dụng công nghệ bể lắng ngang, lọc áp lực là Hà Ráng, Hà Khánh, +260 và +320 Đồng Vông, +41 Lộ Trí, +131 Tràng Khê, Khe Chàm... Bên cạnh đó, các trạm xử lý thế hệ thứ hai như Cọc Sáu, Vàng Danh, Mạo Khê đã được áp dụng công nghệ tấm lắng nghiêng nhằm tăng tốc độ lắng, đồng thời hạn chế diện tích bể lắng sử dụng so với công nghệ bể lắng ngang. Các trạm xử lý được thiết kế ngày càng hợp lý về bố trí mặt bằng, gọn, đồng thời ngày càng mang dáng dấp công nghiệp như các trạm xử lý nước thải Cái Đá, Hoành Bồ…