Sản xuất và tiêu dùng bền vững

Thứ hai, 25/08/2025 | 19:13 GMT+7

Kinh tế tuần hoàn

Tăng trưởng xanh từ nền tảng công nghiệp môi trường

25/08/2025

Công nghiệp môi trường đang được xem là “mảnh ghép” quan trọng trong chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam. Tuy nhiên, ngành này vẫn ở giai đoạn sơ khai, cần một lộ trình phát triển bài bản để bứt phá.
Công nghiệp môi trường không chỉ đơn thuần là xử lý ô nhiễm, mà là một ngành kinh tế tổng hợp với vai trò then chốt trong chiến lược tăng trưởng xanh. Ngành này bao gồm từ sản xuất thiết bị, công nghệ xử lý; dịch vụ thu gom, vận chuyển; tái chế và kinh doanh chất thải; nghiên cứu, phát triển; đến đào tạo và truyền thông nâng cao nhận thức. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách và nguồn lực tài chính đóng vai trò như “hạ tầng mềm” để vận hành toàn bộ chuỗi giá trị.
Nguyên liệu đầu vào của ngành rất đặc thù, chính là chất thải phát sinh từ sản xuất và sinh hoạt. Khi được nhìn nhận như một nguồn tài nguyên tái tạo, chất thải có thể tạo ra giá trị kinh tế mới, thay vì trở thành gánh nặng cho môi trường và xã hội.
Công nghiệp môi trường đang được xem là “mảnh ghép” quan trọng trong chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam (Ảnh: TCTC)
Trên thế giới, công nghiệp môi trường thường trải qua bốn cấp độ phát triển. Cấp độ đầu tiên là làm sạch thông qua việc xử lý chất thải để trả lại môi trường trạng thái an toàn. Thứ hai là tái chế chất thải thành nguyên liệu sản xuất. Thứ ba là tuần hoàn khép kín chu trình sản xuất, tiêu dùng và tái chế để giảm tối đa lượng chất thải phát sinh. Cuối cùng là không phát thải - một hệ thống sản xuất và tiêu dùng hoàn toàn không tạo ra chất thải hoặc tái sử dụng toàn bộ. 
Việt Nam hiện chủ yếu mới dừng ở cấp độ làm sạch và mới bắt đầu tiếp cận tái chế, trong khi mô hình tuần hoàn còn manh mún và mục tiêu không phát thải vẫn còn xa. Quá trình phát triển của ngành hiện gặp nhiều rào cản. Trước hết, khung chính sách và thể chế còn thiếu đồng bộ, chưa ổn định, dẫn tới khó khăn trong triển khai và huy động nguồn lực xã hội. Cơ chế thực thi và ưu đãi chưa đủ linh hoạt, nhiều doanh nghiệp dù đã đầu tư bài bản vẫn khó tiếp cận hỗ trợ. Ở khía cạnh khoa học công nghệ, một số công nghệ xử lý quy mô nhỏ đã được làm chủ, song phần lớn chưa được thương mại hóa do thiếu vốn, thiếu cơ chế thử nghiệm và vùng ứng dụng thực tế.
Bên cạnh đó, hạ tầng kỹ thuật và công nghiệp phụ trợ cũng là điểm yếu, khi Việt Nam chưa làm chủ được các thiết bị lõi, phải nhập khẩu phần lớn máy móc, linh kiện. Về tài chính, doanh nghiệp, đặc biệt là nhóm nhỏ và vừa, gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng; các quỹ môi trường và tín dụng xanh chưa thực sự phát huy hiệu quả. Nghiêm trọng hơn là khoảng trống về nhận thức khi công nghiệp môi trường chưa được coi là ngành kinh tế chiến lược, chất thải vẫn bị xem là thứ bỏ đi thay vì một loại tài nguyên.
Ngành công nghiệp Việt Nam đang nỗ lực sử dụng nhiên liệu sạch, tăng cường tái chế, tuần hoàn để phát triển công nghiệp môi trường (Ảnh: MOIT)
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, mỗi quốc gia thành công đều có mô hình phát triển riêng. Hàn Quốc tập trung làm chủ công nghệ lõi, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường và khuyến khích đổi mới sáng tạo. Trung Quốc lại đầu tư quy mô lớn, quy hoạch cụm ngành đồng bộ, doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò dẫn dắt, trước hết nội địa hóa công nghệ phục vụ thị trường trong nước rồi mới hướng ra quốc tế. Mỹ đi theo con đường khác, ưu tiên phát triển công nghệ tiên phong, đầu tư mạnh vào nghiên cứu phát triển, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và công nghiệp 4.0.
Với Việt Nam, hướng đi phù hợp là xây dựng mô hình mang đặc thù riêng nhưng hội tụ ba yếu tố: làm chủ công nghệ, doanh nghiệp tư nhân dẫn dắt, và Nhà nước đóng vai trò kiến tạo. Làm chủ công nghệ cần được coi là yêu cầu sống còn, bắt đầu từ quy mô nhỏ nhưng hướng tới tự thiết kế, chế tạo thiết bị và công nghệ lõi như lò đốt tầng sôi, xử lý nước thải, phân loại chất thải tại nguồn.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp tư nhân là lực lượng nhạy bén với thị trường, sẵn sàng đổi mới khi có cơ hội, trong khi Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý, kết nối doanh nghiệp với viện nghiên cứu và trường đại học, hình thành trung tâm đổi mới sáng tạo và vườn ươm công nghệ.
Quan trọng hơn, cần đầu tư toàn bộ chuỗi từ nghiên cứu đến thương mại hóa. Một công nghệ dù tiềm năng cũng khó phát triển nếu thiếu nguồn vốn để xây dựng nhà máy triển khai thử nghiệm và mở rộng thị trường. 
Công nghiệp môi trường là nền tảng quan trọng để Việt Nam tiến tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Để biến tiềm năng thành lợi thế, cần một chiến lược rõ ràng, chính sách đồng bộ, sự vào cuộc mạnh mẽ của Nhà nước và sự chủ động của doanh nghiệp. Việt Nam hoàn toàn có thể hình thành một ngành công nghiệp môi trường không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn đủ sức vươn ra thị trường quốc tế.
Tuệ Lâm