Trong khi mô hình kinh tế tuyến tính truyền thống ngày càng bộc lộ những giới hạn về tài nguyên và chi phí môi trường, kinh tế tuần hoàn nổi lên như một chiến lược phát triển bền vững tại nhiều khu công nghiệp (KCN).
Tại Việt Nam, mô hình kinh tế tuần hoàn đang dần trở thành một hướng đi mới, đặc biệt trong các khu công nghiệp nơi tập trung sản xuất và cũng là nơi phát sinh lượng lớn chất thải. Không giống mô hình kinh tế tuyến tính truyền thống với quy trình khai thác, sản xuất, tiêu dùng rồi thải bỏ thì kinh tế tuần hoàn hướng tới việc kéo dài vòng đời của sản phẩm và tài nguyên thông qua các hoạt động tái chế, tái sử dụng và thiết kế tối ưu hóa.
Trong môi trường khu công nghiệp, kinh tế tuần hoàn không chỉ là việc mỗi doanh nghiệp tự xử lý chất thải của mình, mà còn là sự kết nối và cộng sinh giữa các doanh nghiệp. Chất thải của nhà máy này có thể trở thành nguyên liệu đầu vào cho nhà máy khác. Hình thành một hệ sinh thái sản xuất mà ở đó năng lượng, nước và nguyên liệu được tái sử dụng lẫn nhau, vừa tiết kiệm chi phí vừa giảm tác động tới môi trường.
Khu công nghiệp DEEP C, Đình vũ, Hải Phòng (Ảnh: KLAN)
Một số khu công nghiệp tại Việt Nam đã tiên phong áp dụng mô hình này và đạt được những kết quả tích cực. Điển hình như Khu công nghiệp DEEP C tại Hải Phòng và Quảng Ninh, nơi đây nhiều doanh nghiệp đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp tuần hoàn như sử dụng chất thải sinh học để tạo ra điện sinh khối, tái sử dụng nước thải sau xử lý cho tưới cây và làm mát thiết bị, hay tái chế nhựa để làm vật liệu xây dựng hạ tầng nội khu. Những cải tiến này không chỉ giúp giảm lượng phát thải mà còn góp phần xây dựng hình ảnh khu công nghiệp xanh, hiện đại và có sức cạnh tranh cao.
Ở miền Tây, KCN Trà Nóc (Cần Thơ) cũng đang phát triển một chuỗi cộng sinh công nghiệp trong ngành chế biến thủy sản. Tại đây, các nhà máy đã liên kết với nhau để thu gom và xử lý bã thải, nước thải, biến chúng thành sản phẩm có giá trị như thức ăn chăn nuôi hoặc phân bón. Cách làm này vừa giúp giảm chi phí xử lý môi trường vừa giúp gia tăng giá trị kinh tế cho từng đơn vị trong chuỗi.
Giải pháp trên cũng được nhiều doanh nghiệp tại KCN Amata (Biên Hoà, Đồng Nai) như Bosch, Nestlé, SMC, Ajinomoto, Schaeffler... thực hiện để gia tăng lợi thế xuất khẩu vào châu Âu, Nhật Bản, Mỹ. Việc thực hiện cộng sinh doanh nghiệp công nghiệp không chỉ hưởng lợi về chất lượng sản phẩm mà còn đáp ứng các cam kết quốc tế về phát thải và môi trường. Qua đó, tăng năng lực cạnh tranh và mở rộng quy mô thị trường.
Tỉnh Đồng Nai cũng tập trung khuyến khích doanh nghiệp tận dụng nguồn lực như tái sử dụng nước thải, thu hồi nhiệt, tái chế chất thải rắn, sử dụng năng lượng tái tạo để hướng đến giảm phát thải carbon....Kết quả bước đầu cho thấy không ít doanh nghiệp đã giảm chi phí sản xuất, giảm phát thải, cải thiện điều kiện làm việc và nâng cao trách nhiệm xã hội
PGS-TS Nguyễn Thị Thanh Phượng - Viện trưởng Viện Công nghiệp môi trường, nhận định, với số lượng lớn KCN và cụm công nghiệp, Đồng Nai có lợi thế để phát triển mô hình tuần hoàn. Việc quy hoạch đồng bộ và đầu tư hạ tầng kỹ thuật hiện đại sẽ giúp tỉnh thu hút nhà đầu tư có công nghệ tiên tiến, từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp phụ trợ phải đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường, sử dụng năng lượng hiệu quả, giảm phát thải để tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Công ty CP Thiết bị điện (Thibidi), Khu công nghiệp Long Đức, huyện Long Thành là một trong những nhà máy sản xuất tiên phong theo mô hình xanh, tuần hoàn của Tập đoàn GELEX. (Ảnh: Báo Đồng Nai)
Những tín hiệu tích cực từ thực tiễn cho thấy mô hình kinh tế tuần hoàn hoàn toàn khả thi nếu có sự hỗ trợ từ thể chế, chính sách và hạ tầng đồng bộ. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi được đánh giá là không hề suôn sẻ với những rào cản còn tồn tại rõ rệt như: thiếu khung pháp lý trực tiếp cho cộng sinh công nghiệp, thủ tục cấp phép còn rối rắm khi một doanh nghiệp muốn tái sử dụng chất thải của doanh nghiệp khác.
Bà Dương Thị Xuân Nương – Phó trưởng Ban Quản lý KCN Đồng Nai cho biết, Ban Quản lý các KCN Đồng Nai đã góp ý cho Dự thảo Nghị định về cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn. Trong đó, kiến nghị bổ sung các nội dung tháo gỡ vướng mắc về quy định pháp lý liên quan đến xử lý, tái chế và tái sử dụng chất thải.
“Đây là vấn đề then chốt trong quá trình cấp phép cho các doanh nghiệp hoạt động trong chuỗi tuần hoàn khép kín, nơi chất thải của doanh nghiệp này là đầu vào của doanh nghiệp kia, nhưng hiện vẫn còn nhiều vướng mắc” bà Nương nhấn mạnh.
Để vượt qua những thách thức này, các chuyên gia đề xuất cần triển khai thí điểm các khu công nghiệp tuần hoàn với sự hỗ trợ về kỹ thuật, tài chính từ Chính phủ và các tổ chức quốc tế. Đồng thời, cần xây dựng các bộ tiêu chuẩn rõ ràng về chất lượng nước tái sử dụng, nguyên vật liệu tái chế và hệ thống công nhận khu công nghiệp sinh thái. Bên cạnh đó, việc hình thành các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp trong KCN cung cấp dịch vụ chuyển giao công nghệ, tư vấn thiết kế chu trình sản xuất tuần hoàn sẽ đóng vai trò thiết yếu trong việc lan tỏa mô hình.
Không dừng lại ở việc bảo vệ môi trường, kinh tế tuần hoàn còn là chiến lược phát triển thông minh, giúp doanh nghiệp tăng hiệu quả kinh doanh, đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe từ thị trường quốc tế về tiêu chuẩn xanh, trách nhiệm môi trường và chuỗi cung ứng bền vững. Sự kết hợp giữa tầm nhìn chính sách, quyết tâm của doanh nghiệp và đầu tư cho hạ tầng sẽ là chìa khóa để kinh tế tuần hoàn thực sự bám rễ trong các khu công nghiệp tại Việt Nam. Khi đó, khu công nghiệp sẽ không còn là điểm nóng về ô nhiễm, mà trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo và là động lực quan trọng cho nền kinh tế xanh trong tương lai.
Minh Khuê