Ngày 27/04/2024
Đồng Nai ban hành kế hoạch sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2022 – 2030  -  Sắp diễn ra Giải chạy “Race for Green Life - Lối sống xanh cho một tương lai bền vững”  -  Ngành Công Thương triển khai đồng bộ giải pháp hiện thực hóa cam kết tại COP 26  -  Ba ưu tiên tài trợ chống biến đổi khí hậu cho khu vực Đông Nam Á  -  Cải thiện nồi hơi giúp giảm gần 1,3 tỷ đồng chi phí nhiên liệu năm tại Nhà máy bia Sài Gòn - Củ Chi  

Tin hoạt động

Chuyển đổi xanh: Vấn đề và giải pháp cho Việt Nam

08:36 - 11/01/2024
1. Một số nét tổng quan
Thế giới đang phải đối mặt với sự mất cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường (BVMT). Hiện nay, biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu không còn là dự báo mà đã trở thành mối đe dọa gây ra nhiều thảm họa và tai biến thiên nhiên trên toàn thế giới.
Năm 1992 tại Rio de Janeiro - Brazil, Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển đã đưa ra Công ước khung của Liên hợp quốc (LHQ) về BĐKH (UNFCCC), đến nay đã có 197 các Bên tham gia với mục tiêu cao cả là giữ cho nhiệt độ khí quyển của Trái Đất tăng không quá 20C vào cuối Thế kỷ 21.
Để xây dựng nền kinh tế ít carbon, tháng 12-2011, Hội nghị về BĐKH tại Nam Phi với 194 nước tham dự đã nhất trí thành lập Quỹ Khí hậu xanh và các bước đi mới nhằm thực hiện các cam kết cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính sau năm 2020. Theo thỏa thuận, tất cả các nước đều phải thực hiện cam kết kiểm soát khí thải theo cùng một khuôn khổ pháp lý. Thỏa thuận sẽ có hiệu lực muộn nhất là vào năm 2020. Các đại biểu cũng nhất trí gia hạn Nghị định thư Ky-ô-tô thêm 5 năm nữa khi hiện tại chỉ có các nước công nghiệp phát triển phải thực hiện các chỉ tiêu mang tính ràng buộc pháp lý về cắt giảm khí thải.
Tại hội nghị về BĐKH của LHQ lần thứ 20 (COP 20) ở Lima (Peru) tháng 12-2014, các nhà đàm phán từ hơn 190 nước đã thông qua thỏa thuận khung, cam kết cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Thỏa thuận này lần đầu yêu cầu tất cả các nước, bao gồm các nước đang phát triển và các nước phát triển, hành động nhằm ngăn chặn tình trạng BĐKH. Theo thỏa thuận, các nước phải thông qua chương trình quốc gia cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính trước hạn chót 31-5-2015. Liên hiệp quốc sẽ xem xét các cam kết này trước Hội nghị về biến đổi khí hậu toàn cầu của LHQ lần thứ 21 (COP 21) tại thủ đô Paris (Pháp) vào cuối năm sau. Theo đó, LHQ sẽ đánh giá tác động kết hợp của các cam kết trong quá trình chống biến đối khí hậu và xác định xem liệu các cam kết này có đủ để kiềm chế nhiệt độ toàn cầu tăng dưới 20C so với thời tiền công nghiệp hay không.
Thỏa thuận nói rõ các nước phát triển phải hỗ trợ tài chính cho các nước đang phát triển trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, phần nào xoa dịu lo ngại của các nước đang phát triển, trong đó có Trung Quốc và Ấn Độ, cho rằng các dự thảo trước đó đặt gánh nặng quá lớn cho các nước đang phát triển so với các nước phát triển. Đồng thời, một cơ chế thiệt hại sẽ được thiết lập nhằm giúp các quốc đảo đang đối mặt với nguy cơ nước biển dâng ứng phó với việc tăng nhiệt độ. Mặc dù còn nhiều ý kiến cho rằng thỏa thuận trên chưa mang nhiều tính ràng buộc vì không bắt buộc các nước đưa ra cam kết cụ thể nhưng nó được coi là tín hiệu tích cực và là nền móng để xây dựng thỏa thuận toàn cầu về biến đổi khí hậu tại Hội nghị Pari, thay thế Nghị định thư Kyoto. Bộ trưởng Môi trường Peru Manuel Vidal cho biết dù chưa toàn diện nhưng thỏa thuận trên có thể làm hài lòng tất cả các nước có mặt tại Lima.
Năm 2015, COP 21 tại Paris đã đạt được một bước tiến mới trong đàm phán về BĐKH toàn cầu. Tất cả các Bên đã thông qua Thỏa thuận Paris với mục tiêu và cam kết cụ thể giảm nhẹ phát thải khí nhà kính cho giai đoạn từ 2021 - 2030. Hiệp định Paris về BĐKH đặt mục tiêu giảm mức tăng nhiệt độ của Trái đất ở mức 1,5-2 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp.
Khoa học đã chỉ ra rằng để có thể duy trì một hành tinh đáng sống và ngăn chặn các hậu quả không thể đảo ngược, chúng ta cần giới hạn tăng nhiệt độ toàn cầu ở mức 1,50C so với mức tiền công nghiệp, và 20C là hạn mức cuối cùng cho nhân loại. Hiện tại, Trái Đất đã ấm lên khoảng 1,10C so với thế kỷ 19 và lượng khí thải vẫn tiếp tục gia tăng. 
Để có thể đảo ngược xu hướng Trái đất ấm lên trước khi nhiệt độ toàn cầu tăng thêm 2 độ C, thế giới cần cắt giảm lượng khí thải từ 40-70% từ nay tới năm 2050 và lượng khí thải cần trở về số O vào cuối thế kỷ này. Mục tiêu đầy tham vọng này đòi hỏi các nước phải chung tay thực hiện sự thay đổi bền vững, lâu dài và mang tính toàn cầu. Kết quả của Hội nghị cho thấy, thế giới đang đi tới sự nhất trí cao trong việc giảm phát thải khí nhà kính, một trong những yếu tố cơ bản để có được nền kinh tế carbon thấp hay còn gọi là kinh tế xanh. Các nước trên thế giới đang đầu tư mạnh vào chiến lược tăng trưởng xanh. Quá trình đưa ra các gói kích thích kinh tế sau khủng hoảng đều dành ưu tiên cao cho tăng trưởng xanh, đầu tư tập trung cho lĩnh vực năng lượng sạch, giao thông thân thiện môi trường, đô thị hóa bền vững, nông nghiệp sinh thái, du lịch sinh thái, công nghiệp văn hóa, xử lý chất thải, thúc đẩy tiêu dùng bền vững và xây dựng lối sống xanh.
Các nước đã có nhiều nỗ lực trong việc đưa ra những sáng kiến nhằm hạn chế và kiểm soát các tác động xấu tới môi trường trong quá trình phát triển. Những khái niệm mới, mô hình mới đã xuất hiện và trở thành tâm điểm chú ý trong thời gian qua đó là "tăng trưởng xanh" và “kinh tế xanh". Cùng với khái niệm phát triển bền vững, khái niệm về tăng trưởng xanh và kinh tế xanh đang góp phần xây dựng mô hình phát triển mới của xã hội.
1.1. Tăng trưởng xanh
Tăng trưởng xanh là quá trình “xanh hóa” hệ thống kinh tế truyền thống, là chiến lược để tiến tới một nền kinh tế “xanh”. Sau cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu vào năm 2008, tăng trưởng “xanh” được dư luận và các nhà phân tích chính sách đặc biệt chú ý bởi nó hứa hẹn giải quyết đồng thời những vấn đề BĐKH và tăng trưởng kinh tế.
Nội hàm của tăng trưởng xanh được nhiều tổ chức quốc tế đề cập. Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) định nghĩa: tăng trưởng “xanh” là định hướng mới thúc đẩy kinh tế phát triển theo những mô hình tiêu thụ và sản xuất bền vững, nhằm bảo đảm nguồn vốn tự nhiên tiếp tục cung cấp những nguồn lực và dịch vụ sinh thái mà đời sống của chúng ta phụ thuộc vào, cho thế hệ này cũng như cho những thế hệ mai sau. 
Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng, tăng trưởng xanh là quá trình tăng trưởng sử dụng tài nguyên hiệu quả, sạch hơn và tăng cường khả năng chống chịu mà không làm chậm quá trình này. 
Theo Sáng kiến tăng trưởng xanh của LHQ: tăng trưởng xanh hay xây dựng nền kinh tế xanh là quá trình tái cơ cấu hoạt động kinh tế và kết cấu hạ tầng để thu được kết quả tốt hơn từ các khoản đầu tư cho tài nguyên, nhân lực và tài chính, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính, khai thác và sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, tạo ra ít chất thải hơn và giảm sự mất công bằng trong xã hội.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) quan niệm, tăng trưởng xanh là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm việc các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta. Tăng trưởng xanh là nhân tố xúc tác trong việc đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự tăng trưởng bền vững và tạo ra các cơ hội kinh tế mới. 
Ủy ban Kinh tế - xã hội châu Á - Thái Bình Dương của Liên hợp quốc (UNESCAP) định nghĩa: tăng trưởng xanh là chiến lược tìm kiếm sự tối đa hóa trong sản lượng kinh tế và tối thiểu hóa gánh nặng sinh thái. Tăng trưởng xanh là cách tiếp cận để đạt được tăng trưởng kinh tế, với mục đích giảm nghèo, bảo đảm sự bền vững về môi trường. Tăng trưởng xanh tập trung vào chất lượng tăng trưởng thông qua thúc đẩy hiệu quả về sinh thái. Tăng trưởng xanh khác với tăng trưởng truyền thống là không lấy phương châm “phát triển trước, bảo vệ môi trường sau”, mà lấy việc phòng, ngừa, lồng ghép bảo vệ môi trường, giảm phát thải carbon trong sản xuất, kinh doanh làm động lực để tăng trưởng. 
Theo Liên minh châu Âu (EU), tăng trưởng xanh là xây dựng một nền kinh tế có tính cạnh tranh cao, sử dụng hiệu quả tài nguyên, tận dụng vị thế tiên phong của châu Âu trong công cuộc phát triển những quy trình, công nghệ mới, bao gồm công nghệ xanh, áp dụng sâu rộng lưới điện thông minh, sử dụng công nghệ thông tin, tận dụng mạng lưới toàn EU và củng cố tính cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong kinh doanh, cũng như hỗ trợ khách hàng đánh giá đúng tầm quan trọng của việc tiết kiệm tài nguyên. Theo đó, để thúc đẩy tăng trưởng xanh cần: Hiện đại hóa và giảm thiểu các-bon trong ngành giao thông, thông qua ứng dụng công nghệ vào những phương tiện giao thông xanh, xây dựng kết cấu hạ tầng phù hợp, giải quyết các điểm thường xuyên tắc nghẽn giao thông; thiết lập một kế hoạch hành động đổi mới sinh thái; đầu tư vào năng lượng tái tạo; khuyến khích sản xuất và tiêu dùng bền vững, với các công cụ được áp dụng trong phạm vi quốc gia cũng như nội khối; các công cụ dựa vào thị trường như buôn bán phát thải, cải tổ hệ thống thuế năng lượng, trợ cấp, khuyến khích mua sắm xanh; thúc đẩy nghiên cứu và phát triển; ban hành các quy định, tiêu chuẩn trong xây dựng, giao thông...; vận động nguồn lực tài chính chung của khối để định hướng đầu tư; chuyển đổi các loại thuế và các khoản trợ cấp; phát triển các công nghệ xanh, nhãn xanh, thuế xanh.
Hiện nay, tăng trưởng xanh được xác định là trọng tâm trong chính sách phát triển quốc gia của nhiều nước trên thế giới trong nỗ lực đạt được sự phát triển bền vững. Các nước đi tiên phong trong việc thúc đẩy tăng trưởng xanh, thể hiện sự cam kết mạnh mẽ hướng tới nền kinh tế xanh là Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp, Hà Lan… 
Các nhà nghiên cứu cho rằng,thúc đẩy tăng trưởng xanh hay quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh sẽ tạo ra tiềm năng to lớn để đạt được phát triển bền vững và giảm đói nghèo với tốc độ chưa từng thấy đối với tất cả các quốc gia. Riêng đối với các quốc gia đang phát triển, tăng trưởng xanh còn tạo đà cho bước “nhảy vọt” để phát triển kinh tế, bỏ qua cách tăng trưởng kinh tế theo kiểu “ô nhiễm trước, xử lý sau”. 
1.2. Kinh tế xanh
Đánh giá khoa học của Ủy ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC) cho thấy, việc tiêu thụ năng lượng do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất năng lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng… đóng góp khoảng một nửa (46%) vào sự nóng lên toàn cầu, phá rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18%, sản xuất nông nghiệp khoảng 9% các ngành sản xuất hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn lại (3%) là từ các hoạt động khác.
Toàn cầu hóa khiến các quốc gia khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn ngày càng nhanh hơn.Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 12/2001 thì một năm sau đó, sản lượng khai thác than của nước này bắt đầu tăng mạnh. Trường hợp tương tự cũng diễn ra tại Ấn Độ, tuy ở quy mô nhỏ hơn.
Mặt khác, toàn cầu hóa làm tăng lượng khí thải dioxide carbon trên thế giới. Nếu thế giới đốt than một cách nhanh chóng hơn và không cắt giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch khác, lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính làm biến đổi khí hậu này tiếp tục gia tăng sẽ đe dọa đến môi trường sống con người.
Thêm vào đó, toàn cầu hóa khiến lãnh đạo các quốc gia gần như không thể dự đoán được những tác động trên phạm vi toàn cầu từ các quyết định chính sách của họ. Chẳng hạn, nếu một quốc gia đưa ra quyết định cắt giảm khí thải nhưng lại có thể gián tiếp khuyến khích hoạt động sản xuất, khai thác than ở nước khác.
Trong những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI đã liên tiếp xảy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế, BĐKH và những cảnh báo về giới hạn khai thác tài nguyên và hệ sinh thái. Thực tế này đòi hỏi nhiều quốc gia phải chuyển dịch mô hình tăng trưởng hiện có.Theo đó, hướng tiếp cận nền “kinh tế xanh” được quan tâm và phát triển.
Nền “kinh tế xanh” theo các chuyên gia là thuật ngữ với nội hàm bao gồm các yếu tố cơ bản sau:(i) đầu tư vào vốn tài nguyên; (ii) tạo việc làm và công bằng xã hội; (iii) thay thế năng lượng hóa thạch bằng năng lượng tái tạo và công nghệ ít carbon; (iv) khuyến khích sử dụng nguồn lực và năng lượng hiệu quả hơn; (v) đô thị bền vững và giao thông ít carbon; (vi) cơ chế tài chính, tài khóa; (vii) hệ thống pháp luật, chính sách hỗ trợ.
Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) định nghĩa nền "kinh tế xanh” là: “Nền kinh tế nâng cao đời sống con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu đáng kể những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái”. Nói một cách đơn giản, nền kinh tế xanh có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả tài nguyên và hướng tới công bằng xã hội. Trong nền “kinh tế xanh”, tăng trưởng về thu nhập và việc làm được tạo ra thông qua những khoản đầu tư của nhà nước và tư nhân nhằm giảm thiểu phát thải carbon, giảm ô nhiễm, sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên, ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học. Đường lối phát triển phải hướng vào duy trì, cải thiện nguồn vốn tự nhiên và phục hồi nếu cần thiết, bởi đây là tài sản kinh tế quan trọng và là nguồn lợi chung, đặc biệt đối với những người nghèo bởi sinh kế và an sinh của họ phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. 
Mô hình kinh tế xanh sẽ làm chuyển đổi cơ bản cấu trúc kinh tế truyền thống, giải quyết hiệu quả các thách thức về kinh tế, môi trường và xã hội. Khái niệm “kinh tế xanh” không thay thế khái niệm bền vững, nhưng nó ngày càng được công nhận là mô hình phù hợp làm nền tảng cho phát triển bền vững. Tính bền vững là một mục tiêu dài hạn quan trọng, nhưng xanh hóa nền kinh tế là phương tiện đưa chúng ta tới đích.
Thuật ngữ “phát triển xanh” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học”. Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 trong Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới -WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển xanh là “sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng,tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai...”. Nói cách khác, phát triển xanh phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường.
1.3. Công nghiệp xanh
Công nghiệp xanh là chương trình do Tổ chức Phát triển công nghiệp quốc tế (UNIDO) khởi xướng để khắc phục những thách thức để môi trường của ngành công nghiệp ở các nước đang phát triển. Công nghiệp xanh tập trung vào ba lĩnh vực chính là hệ thống sản xuất, thiết kế sản phẩm và hệ thống quản lý. Đối với hệ thống sản xuất, các doanh nghiệp cần áp dụng các biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên và sản xuất sạch hơn hay áp dụng chiến lược 3R (giảm thải, tái chế và sử dụng lại). Điều này đặc biệt phù hợp với các nước đang phát triển vì theo UNIDO (2010), mức tiêu hao tài nguyên của các doanh nghiệp công nghiệp ở các nước này cao hơn ít nhất 3 lần so với các cơ sở tương đương tại các nước phát triển.  Đối với việc thiết kế sản phẩm, các doanh nghiệp có thể thiết kế sản phẩm sao cho sản phẩm của họ sử dụng ít nguyên liệu hơn, tiêu thụ ít năng lượng, nước, hóa chất… khi sử dụng. Trên phương diện hệ thống quản lý, đây là một công cụ hữu hiệu để đảm bảo doanh nghiệp thực hiện chiến lược 3R hiệu quả.
Dựa trên khái niệm kinh tế xanh và thực tế yêu cầu của công nghiệp xanh, có thể thấy rõ công nghệ xanh chính là một công cụ để thực hiện công nghiệp xanh và tiến tới mục tiêu kinh tế xanh. Trong những năm gần gây, tại nhiều nước trên thế giới công nghệ xanh được coi là một ngành kinh tế có tiềm năng phát triển do nhu cầu thị trường đối với các sản phẩm công nghệ xanh đang được hình thành và ngày càng tăng.
Ở mỗi nước, công nghệ xanh được định nghĩa theo cách riêng nhưng nhìn chung bao gồm 02 lĩnh vực chính là (i) công nghệ sản xuất xanh và (ii) sản phẩm công nghệ xanh. Ví dụ như ở Malaysia, công nghệ xanh được hiểu là những sản phẩm, thiết bị hoặc hệ thống giúp giảm thiểu suy thoái môi trường, giảm phát thải khí nhà kính, sử dụng an toàn và tốt cho sức khỏe và môi trường, tiết kiệm năng lượng và tài nguyên thiên thiên và thúc đẩy sử dụng công tài nguyên có thể tái tạo.
 Mối liên hệ giữa phát triển bền vững, tăng trưởng xanh và kinh tế xanh
2. Vấn đề đặt ra
Trong khi tài nguyên thế giới đang dần cạn kiệt, đa dạng sinh học đang bị suy giảm, ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, BĐKH ngày càng rõ nét, nhiều quốc gia lựa chọn kinh tế xanh là mô hình phát triển mới để giải quyết đồng bộ những vấn nạn đang tiếp diễn phức tạp.Mô hình kinh tế mới này ghi nhận giá trị và vai trò của đầu tư vào vốn tự nhiên, tạo ra việc làm, là trụ cột để giảm nghèo.Thay vì sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nền kinh tế xanh sử dụng năng lượng tái tạo và công nghệ carbon thấp, khuyến khích sử dụng nguồn lực và năng lượng hiệu quả hơn...
Chuyển đổi xanh đang trở thành một xu hướng khách quan và trở thành là ưu tiên trong lựa chọn định hướng phát triển của nhiều quốc gia. Chuyển đổi xanh mang lại cho cộng đồng doanh nghiệp cả thời cơ và thách thức đan xen. Nó mang lại tăng trưởng dài hạn cho doanh nghiệp gắn với lợi ích bền vững cho cộng đồng về văn hoá, xã hội và môi trường.
Net Zero đã là yêu cầu cấp thiết của phát triển bền vững. Ngăn chặn nhiệt độ toàn cầu tăng thêm 2°C, đòi hỏi phải cắt giảm 25-50% lượng khí thải nhà kính từ mức của năm 2019 vào năm 2030. Trong khi đó, các cam kết hiện tại của các quốc gia tính đến năm 2030 chỉ giảm 12% so với mức ước tính của năm 2019, và con số này là không đạt như mong muốn. Tại sự kiện Diễn đàn Kinh tế xanh 2023 với chủ đề “Net Zero – Đường đến phát triển bền vững” do Tạp chí Kinh tế Sài Gòn tổ chức ngày 18-8-2023, GS.TS Jonathan Pincus, chuyên gia kinh tế quốc tế cấp cao của UNDP, đánh giá lộ trình Net Zero hiện nay chưa khả quan nên thế giới “cần phải nỗ lực hơn nữa”.
Thống kê cho thấy 130 quốc gia đã đặt mục tiêu đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, chiếm 90% lượng phát thải hiện tại. Trong khi đó, nhóm nước G20, hay còn gọi là nhóm nước giàu sẽ chịu trách nhiệm giảm đến 75% khí thải nhà kính.
3. Giải pháp cho Việt Nam
Các đánh giá và nhận định đều cho rằng Việt Nam là một trong 10 nước chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH, một trong 5 nước sẽ chịu tác động mạnh của nước biển dâng. Tuy nhiên cả ba động lực tăng trưởng hiện nay của nền kinh tế Việt Nam là tiêu dùng nội địa, đầu tư và xuất khẩu đều không theo hướng chuyển đổi xanh. Nếu không thay đổi hành vi trong tiêu dùng, đầu tư và sản xuất kinh doanh thì các mục tiêu về chuyển đổi xanh sẽ khó đạt được.
Báo cáo nghiên cứu Chỉ số Net Zero các nền kinh tế năm 2022 của PwC, đo lường mức độ tiêu thụ năng lượng so với GDP và hàm lượng carbon của năng lượng đó, đánh giá Việt Nam là nền kinh tế phụ thuộc vào than đá và hiện còn cách khá xa so với đích đến trong lộ trình cân bằng giảm phát thải carbon, xếp chung nhóm với một số quốc gia như Bangladesh, Philippines, Pakistan…“Sự phát triển kinh tế của các nước này trong thập kỷ qua được thúc đẩy một phần bởi than đá và đây là những rủi ro lớn nhất khi quốc gia bị mắc kẹt giữa tài nguyên cạn kiệt và biến đổi khí hậu”, báo cáo đánh giá.
Mức độ phát thải của một số nền kinh tế khu vực châu Á Thái Bình Dương (Nguồn: PwC)
Xây dựng nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường là một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 được Đảng đề ra trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Tại Phiên toàn thể của Diễn đàn Kinh tế xanh (GEF) năm 2023 do Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu (EuroCham) phối hợp tổ chức, Thủ tướng Chính phủ khẳng định: Việt Nam xác định phát triển nhanh nhưng bền vững; không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường để chạy theo tăng trưởng đơn thuần.Việt Nam hướng tới sản xuất xanh, xuất khẩu xanh và năng lượng xanh để các nhà đầu tư hoạt động hiệu quả, bền vững, lâu dài.
Từ năm 2011 đến nay, Việt Nam đã ban hành nhiều luật, chiến lược, chính sách về BĐKH.Các chương trình hành động quốc gia,cấp ngành, địa phương cũng từng bước được xây dựng và triển khai thực hiện. Đặc biệt, sau cam kết của Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (COP26), các bộ, ngành đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều đề án, chiến lược, kế hoạch hành động, như: Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị COP26; Chiến lược quốc gia về BĐKH  giai đoạn đến năm 2050; Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030; Kế hoạch hành động giảm phát thải khí metan đến năm 2030; Chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí carbon và khí metan ngành giao thông vận tải… Tuy nhiên, hướng đến giảm phát thải ròng về bằng 0 (Net zero) vào năm 2050, theo cam kết của Việt Nam tại Hội nghị thượng đỉnh về BĐKH của LHQ năm 2021 (COP26), được cho là thách thức rất lớn.
Chúng ta cần nguồn lực tài chính không nhỏ để tạo ra đột phá để hướng đến mục tiêu "xanh hoá". Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB), để hiện thực hóa mục tiêu hướng tới phát thải ròng bằng không vào năm 2050, thực thi cam kết của Việt Nam tại COP26, Việt Nam sẽ cần tới 380 tỷ USD.
Việt Nam hiện cũng chưa có đầy đủ khung pháp lý, chính sách tổng thể về hoạt động tín dụng xanh; đồng thời, thiếu công cụ, chính sách tiền tệ để khuyến khích ngân hàng tham gia tài trợ. Các quy định về phát hành trái phiếu xanh cũng thiếu các quy định hướng dẫn cụ thể…
Sự thiếu vắng các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn, thẩm định, đánh giá rủi ro về môi trường xã hội và tiêu chí xanh của dự án cũng là vấn đề nan giải.
Vai trò của Chính phủ
Đầu tư công “xanh” góp phần điều chỉnh và cải thiện chất lượng dòng vốn đầu tư FDI vào Việt Nam.Một nghiên cứu của PwC công bố tháng 4-2023 về hạ tầng chỉ ra, các quốc gia như Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam cần đầu tư tới 60% cho cơ sở hạ tầng mới phục vụ được mục tiêu này. Tất nhiên, nguồn tài chính xanh, ngoài huy động từ khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài, còn đến từ đầu tư công.
Quan sát của chuyên gia Bruce Delteil, Giám đốc điều hành McKinsey & Company Việt Nam, cho thấy có 4 điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng thị trường trái phiếu xanh là (i) nhu cầu tài trợ các dự án có lợi cho môi trường, như năng lượng tái tạo và hạ tầng xanh; (ii) bảo đảm các sản phẩm xanh đem lại nguồn lợi cho ngân hàng và nhà đầu tư; (iii) xây dựng khung pháp lý; (iv) tạo dựng thị trường trái phiếu xanh. Tuy nhiên, số lượng công cụ tài chính xanh và mức độ phát triển thị trường này ở Việt Nam còn thấp. Một cuộc khảo sát gần đây cho thấy 40% các ngân hàng Việt Nam không có dự án đầu tư xanh trong danh mục đầu tư của mình.
Rào cản chi phí, như: chi phí tư vấn, xếp hạng tín nhiệm và chứng nhận dự án xanh,... cũng là một thách thức lớn, làm giảm động lực phát hành. Đây là một nguồn tài chính rất tiềm năng nhưng cần nhiều thay đổi trong vấn đề thể chế để tạo thuận lợi cho những hoạt động đầu tư có thể triển khai. Cần phải thay đổi cách nhìn, tạo ra một chỗ đứng cho trái phiếu xanh. Đây chính là thời khắc cả Chính phủ, doanh nghiệp, các định chế tài chính cần ngồi lại để có thể tìm ra một giải pháp.
Theo ước tính của IEA, để giảm một nửa lượng khí thải toàn cầu vào năm 2050, thế giới sẽ cần một khoản đầu tư lên đến 46 nghìn tỷ USD, tương đương với 1 nghìn tỷ USD/năm.Trong điều kiện đó, trái phiếu “xanh” được xem như một giải pháp hiệu quả, có thể giúp huy động hàng trăm tỷ USD/năm cho việc phát triển một nền kinh tế “sạch” và bền vững. Thông tin từ Climate Bonds Initiative (CBI) cho biết đến năm 2023 có khoảng 2.334 tỷ USD trái phiếu xanh được phát hành, bằng 5% giá trị thị trường nợ toàn cầu và dự kiến tới năm 2025 đạt 5.000 tỷ USD.
Để giải quyết những vấn đề đặt ra, Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các  chính sách, công cụ để tạo môi trường đầu tư kinh doanh hướng tới phát triển xanh và bền vững. Xây dựng cơ chế, chính sách để huy động nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế, nâng cao khả năng tiếp cận tài chính xanh cho các doanh nghiệp; hỗ trợ doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp lớn trở thành tổ chức tài chính dẫn dắt thị trường sản xuất và tiêu dùng xanh trong nền kinh tế, cũng như hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thử nghiệm đấu giá các giấy phép nhậu khẩu đối với những hàng hoá gây ảnh hưởng lớn đến môi trường sinh thái. Đây là chính sách cần thiết có tác động điều chỉnh trực tiếp đối với các sản phẩm gây hại đến môi trường, phát thải các chất gây hiệu ứng nhà kính, làm thủng tầng ô - zôn (như ô tô bốn chỗ ngồi, các hoá chất có gốc CFC,... ), thông qua đó số tiền mà Nhà nước thu được để lập quỹ bảo vệ môi trường.
Xây dựng một chính sách tiêu dùng hợp lý, khoa học. Cần phải xem hướng dẫn tiêu dùng như là một bộ phận trong giáo dục lối sống của cộng đồng để đạt đến sự phát triển bền vững. Một chính sách tiêu dùng hợp lý, được chấp nhận sẽ góp phần sử dụng có khoa học các tài nguyên thiên nhiên. Nâng cao nhận thức về quyền lợi và trách nhiệm của người tiêu dùng đối với mọi hàng hoá lưu thông trên thị trường tạo ra sức ép buộc các nhà sản xuất phải tuân tbủ đúng tiêu chuẩn về chất lượng đối với sản phẩm của mình. Tiêu dùng có văn hoá và mang tính nhân bản là tiêu dùng không chỉ cho hôm nay còn nghĩ đến tương lai của thế hệ mai sau.
Phát huy nỗ lực của doanh nghiệp
“Xanh hóa” sản phẩm và sản xuất xuất phát từ các quốc gia phát triển như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản… và đang lan tỏa đến những nền kinh tế mới nổi, trong đó có Việt Nam. Quá trình chuyển đổi xanh muốn thành công cần phải tư duy và hành động đột phá. Theo đó doanh nghiệp cần :
- Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến các tác động của các quy định tiêu chuẩn và quy định môi trường của sản phẩm.
- Đầu tư đổi mới công nghệ đồng bộ và hiện đại để sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, giảm thiểu ô nhiễm, nâng cao chất lượng sản phẩm.
 - Nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp, đặc biệt là năng lực phân tích kinh tế và môi trường, biết gắn kết lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường, khả năng phân tích chi phí - lợi ích khi phải tiến hành đồng thời cả nhiệm vụ kinh doanh và thực thi quy định môi trường, để từ đó họ có những cân nhắc hợp lý theo nguyên tắc “WIN - WIN”, đôi bên đều có lợi.
- Thực hiện áp dụng sản xuất sạch hơn (SXSH) trong công nghiệp
Đánh giá và rà soát các đề án SXSH đã ban hành để tìm ra những vướng mắc trong quá trình thực hiện, có sự điều chỉnh kịp thời về nguồn tài chính cho thực hiện đề án.
Xem xét lại những ưu đãi khuyến khích đã có đối với hoạt động SXSH trong công nghiệp, từ đó có những giải pháp cụ thể và hiệu quả để hỗ trợ doanh nghiệp trong việc chuyển giao công nghệ, nhất là đổi mới công nghệ trong sản xuất công nghiệp, giảm thiểu ô nhiễm, sử dụng hiệu quả nguyên nhiên liệu đối với các dự án đầu tư cho hoạt động SXSH. Rà soát lại các văn bản liên quan và chỉnh sửa bổ sung kịp thời, thời gian nên kéo dài đến năm 2030.
Tăng cường hơn nữa hỗ trợ tư vấn của Nhà nước đối với các doanh nghiệp công nghiệp thực hiện các biện pháp SXSH. Nhất là đánh giá, xem xét lại các chính sách khuyến công, cần chú ý tới các trung tâm khuyến công và đặc biệt là đối với các trung tâm đã, đang thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp thực hiện các giải pháp SXSH.
Rà soát, đánh giá lại các văn bản có liên quan đến khuyến khích doanh nghiệp công nghiệp áp dụng các biện pháp SXSH để bổ sung kịp thời, nhất là các văn bản về ưu đãi tiếp cận các nguồn tín dụng, ưu đãi về tài chính như thuế/phí, đất đai thuê mặt bằng hay thuế/phí sử dụng đất… nhằm huy động sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp đối với SXSH có lợi thế cạnh tranh trên thị trường cùng loại sản phẩm.
Đối với đào tạo kỹ thuật và nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, Nhà nước cần hỗ trợ đào tạo cán bộ kỹ thuật về SXSH cho các doanh nghiệp công nghiệp để họ có thể tự đảm đương công việc và tư vấn cho doanh nghiệp khác. Đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông về SXSH trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế không chỉ đối với các đối tác truyền thống như UNIDO, UNDP… mà còn mở rộng những tổ chức tài chính mới, nhất là liên quan đến nguồn tài chính giảm thiểu tác động của BĐKH của các quốc gia và tổ chức quốc tế nhằm thực hiện nội dung giảm thiểu khí nhà kính trong quá trình thực hiện các giải pháp SXSH trong công nghiệp.
Lương Thanh Hải
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại -  Viện nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương