Sản xuất và tiêu dùng bền vững

Chủ nhật, 26/10/2025 | 13:09 GMT+7

Điển hình

Giải pháp bền vững cho sản xuất nông nghiệp và bảo vệ môi trường

02/08/2025

Tận dụng phế phẩm nông nghiệp để ủ phân hữu cơ, không chỉ góp phần cải thiện chất lượng đất, nâng cao năng suất cây trồng mà còn bảo vệ môi trường một cách thiết thực.
Phế phẩm nông nghiệp là những sản phẩm thừa hoặc không thể sử dụng trong quá trình sản xuất nông nghiệp, bao gồm rơm rạ, vỏ lúa, thân cây ngô, lá cây, vỏ quả, v.v. Theo thống kê, mỗi năm, Việt Nam sản xuất một lượng phế phẩm nông nghiệp khổng lồ, phần lớn trong số đó bị bỏ đi hoặc xử lý không đúng cách, gây ô nhiễm môi trường. Việc đốt hoặc chôn lấp các phế phẩm này không chỉ làm giảm chất lượng đất mà còn góp phần phát thải khí nhà kính, gây ảnh hưởng tiêu cực đến khí hậu toàn cầu.
Tuy nhiên, nếu được xử lý và sử dụng đúng cách, phế phẩm nông nghiệp có thể trở thành nguồn tài nguyên quý giá, đóng góp vào việc bảo vệ môi trường và phát triển nông nghiệp bền vững.
Hiệu quả rõ rệt
Ủ phân hữu cơ là quá trình biến đổi các chất hữu cơ có trong phế phẩm thành phân bón tự nhiên qua sự phân hủy của vi sinh vật. Việc ủ phân hữu cơ từ phế phẩm không chỉ giúp giảm lượng rác thải nông nghiệp mà còn đem lại nhiều lợi ích quan trọng đối với đất đai, cây trồng và môi trường.
Xu hướng tận dụng phế phụ phẩm nông nghiệp làm phân bón hữu cơ gia tăng tại các địa phương (Ảnh: KHNN)
Phân hữu cơ là một nguồn cung cấp dinh dưỡng dồi dào cho đất. Khi được sử dụng, phân hữu cơ giúp cải thiện cấu trúc đất, tăng khả năng giữ nước và tăng cường hoạt động của vi sinh vật có lợi trong đất. Điều này không chỉ giúp cây trồng phát triển khỏe mạnh mà còn giúp đất trở nên màu mỡ, giảm thiểu tình trạng thoái hóa đất do sử dụng phân bón hóa học lâu dài.
Đặc biệt, khi sử dụng phân hữu cơ, người nông dân không cần phải dựa quá nhiều vào phân bón hóa học, từ đó giảm thiểu các tác hại của hóa chất đối với sức khỏe con người và hệ sinh thái. Đồng thời, giúp nông dân giảm chi phí mua phân bón hóa học. Đây là một giải pháp tiết kiệm cho nông dân, đặc biệt trong bối cảnh giá phân bón hóa học liên tục tăng cao. Bên cạnh đó, phế phẩm nông nghiệp là nguồn tài nguyên sẵn có tại địa phương, giúp tạo ra nguồn phân bón phong phú mà không cần phải phụ thuộc vào nguồn cung bên ngoài.
Hiện nay, nhiều địa phương trên cả nước đã tích cực áp dụng phương pháp ủ phân hữu cơ từ phế phẩm nông nghiệp, mang lại hiệu quả thiết thực trong sản xuất nông nghiệp và bảo vệ môi trường.
Tại Nghệ An, nhiều hộ nông dân đã triển khai ứng dụng mô hình ủ, chế phân từ phân chuồng và rác thải hữu cơ. Mô hình này bước đầu cho thấy hiệu quả rõ rệt, lượng phân chuồng và rác thải sinh hoạt giảm đáng kể, đồng thời cung cấp nguồn phân bón cho cây trồng.
Mô hình ủ phân hữu cơ của gia đình chị Hồ Thị Thoa, ở xóm Găng, xã Nghĩa Hưng, huyện Nghĩa Đàn (Ảnh: dantri)
Gia đình chị Hồ Thị Thoa (huyện Nghĩa đàn, Nghệ An) là một trong những hộ tiên phong tham gia làm hố ủ phân hữu cơ tại chỗ. Gia đình chị tận dụng các loại rác thải hữu cơ như rau, vỏ trái cây, rơm, phân trâu để ủ phân. Mỗi mẻ ủ khoảng 1,5-2 tấn phân, sau 60 ngày có thể sử dụng. "Nhờ cách làm này, lượng rác thải ra môi trường của gia đình tôi giảm hẳn, đồng thời nhà lại có nguồn phân bón hữu cơ giúp cây trồng phát triển tốt, cho giá trị cao và còn cải tạo được đất", chị Thoa hào hứng.
Ông Phan Thế Phương, Chủ tịch Hội nông dân huyện Nghĩa Đàn, cho biết mô hình ủ phân hữu cơ không chỉ bảo vệ môi trường mà còn giúp giảm chi phí phân bón, nâng cao năng suất cây trồng. "Mô hình này tạo sức lan tỏa trong cộng đồng, góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, xây dựng huyện Nghĩa Đàn sáng - xanh - sạch - đẹp", ông Phương nhận định.
Tại Bắc Kạn, từ năm 2023, HTX Tài Hoan, xã Côn Minh (huyện Na Rì) cũng đang triển khai mô hình xử lý bã dong riềng làm phân bón hữu cơ cho cây trồng và thức ăn chăn nuôi. Sau 40-45 ngày ủ, trộn, phân chuyển màu đen, có độ tơi xốp, không có mùi hôi, đáp ứng các chỉ tiêu về chất lượng, tiêu chuẩn về phân bón. Mô hình làm phân bón hữu và thức ăn chăn nuôi từ bã dong riềng được đánh giá là dễ làm, dễ áp dụng, chi phí thấp, phù hợp với các cơ sở, hộ gia đình trên địa bàn.
Tham quan các sản phẩm phân bón, thức ăn chăn nuôi từ bã dong riềng (Ảnh: Báo Bắc Kạn)
Tại Gia Lai, thực hiện “Đề án phát triển sản xuất và sử dụng phân bón hữu cơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050”, nhiều nông hộ trên địa bàn tỉnh đã tích cực thực hiện ủ và sử dụng phân bón hữu cơ. Gia đình anh Lê Hữu Trường (thôn Hòa Lộc, xã Ia Phang, huyện Chư Pưh) là một ví dụ điển hình. Gia đình anh đã thu gom nhiều phụ phẩm nông nghiệp trên địa bàn huyện như cây bắp, vỏ trấu, rơm rạ., phơi khô rồi nghiền thành bột, rồi trộn với một số loại phân động vật và men sinh học để tạo ra phân bón hữu cơ.
Do nguồn dinh dưỡng trong bột phụ phẩm nông nghiệp không cao nên anh Trường chọn ủ trộn với một số loại đạm có dinh dưỡng cao như: đạm cá, đạm đậu nành, mật rỉ đường… Với 2 tấn bột phụ phẩm nông nghiệp, anh trộn với 5 lít đạm cá, 10 lít nước đậu nành, 4 kg nấm trichoderma, 5 lít rỉ mật và một ít loại đạm khác. Cứ nửa tháng 1 lần, anh đảo và tưới nước để đảm bảo độ ẩm đạt 70-80%. Sau 75 ngày thì có thể sử dụng để bón cho cây trồng. “Nếu phải mua phân bón từ bên ngoài, tôi tốn khoảng 40-50 triệu đồng/năm. Nhờ tự ủ phân bón, tôi giảm được 70% chi phí”, anh Trường cho biết.
Đồng bộ giải pháp
Có thể thấy, tái sử dụng phế phẩm nông nghiệp và rác thải hữu cơ để sản xuất phân bón là một giải pháp không chỉ giúp giảm ô nhiễm môi trường mà còn thúc đẩy nông nghiệp bền vững. Để mô hình này phát triển mạnh mẽ, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp từ chính sách, công nghệ đến cộng đồng:
Thứ nhất, cần có các chính sách hỗ trợ như ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính hoặc khuyến khích nghiên cứu và phát triển công nghệ xử lý phế phẩm nông nghiệp, tạo động lực để nông dân và các doanh nghiệp tham gia vào mô hình tái sử dụng phế phẩm nông nghiệp một cách hiệu quả.
Thứ hai, xây dựng mô hình cộng đồng và hợp tác xã cùng nhau thu gom và xử lý phế phẩm nông nghiệp nhằm tối ưu hóa quy trình sản xuất phân bón hữu cơ và giảm chi phí vận hành, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các hợp tác xã có thể là cầu nối giữa các nông dân, cơ sở chế biến phân bón và các đơn vị cung cấp kỹ thuật.
Thứ ba, đào tạo và nâng cao nhận thức cho nông dân về các phương pháp thu gom, xử lý phế phẩm nông nghiệp để sản xuất phân bón hữu cơ. Các khóa đào tạo về kỹ thuật ủ phân hữu cơ, các lợi ích của phân bón hữu cơ đối với sản xuất nông nghiệp bền vững cần được tổ chức thường xuyên để nông dân hiểu rõ hơn về quy trình và lợi ích của việc tái sử dụng phế phẩm.
Thứ tư, tăng cường ứng dụng công nghệ mới trong xử lý phế phẩm nông nghiệp như công nghệ ủ biogas, chế biến phân compost, hoặc sử dụng công nghệ vi sinh để tăng cường hiệu quả xử lý phế phẩm. Các công nghệ này không chỉ giúp xử lý phế phẩm nhanh chóng mà còn nâng cao chất lượng phân bón hữu cơ.
Thứ năm, tạo thị trường tiêu thụ phân bón hữu cơ. Việc xây dựng một thị trường ổn định cho phân bón hữu cơ là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy mô hình tái sử dụng phế phẩm nông nghiệp. Việc tổ chức các hội chợ, triển lãm, hoặc kết nối các doanh nghiệp chế biến phân bón với nông dân sản xuất phân bón hữu cơ là một trong những giải pháp hữu hiệu để tạo ra thị trường tiêu thụ cho sản phẩm này.
Minh Khuê