Nhân rộng điển hình từ Hợp phần Sản xuất sạch hơn trong công nghiệp (CPI)
Thứ tư, 30/03/2011
Sau 5 năm triển khai thực hiện (2006-2010), Hợp phần sản xuất sạch hơn (SXSH) trong công nghiệp (CPI) đang đi đến giai đoạn cuối cùng. 57 DN được tham gia trình diễn, trung bình tiết giảm được từ 10-30% nguyên vật liệu; phổ biến SXSH đến 43 tỉnh trong và ngoài mục tiêu… là những kết quả quan trọng CPI đã đạt được sau 5 năm triển khai.
Sau 5 năm triển khai thực hiện (2006-2010), Hợp phần sản xuất sạch hơn (SXSH) trong công nghiệp (CPI) đang đi đến giai đoạn cuối cùng. 57 DN được tham gia trình diễn, trung bình tiết giảm được từ 10-30% nguyên vật liệu; phổ biến SXSH đến 43 tỉnh trong và ngoài mục tiêu… là những kết quả quan trọng CPI đã đạt được sau 5 năm triển khai.
Thời gian tới, để chiến lược SXSH
trong công nghiệp đến năm 2020 phát huy những kết quả CPI đã đạt được,
mục tiêu đề ra là phấn đấu nhân rộng điển hình. Ông Đặng Tùng - Giám đốc
Hợp phần CPI đã chia sẻ như vậy với phóng viên Kinh tế Việt Nam.
Thưa ông, quý I/2011, Hợp phần CPI đã kết thúc. So với mục tiêu ban đầu, những kết quả của chương trình đã được như mong đợi chưa?
Hợp phần CPI luôn được đánh giá là một trong những hợp phần hoàn thành xuất sắc những mục tiêu, nhiệm vụ mà văn bản khung đưa ra. Thành công nhất là trong suốt thời gian triển khai thực hiện từ năm 2006 đến giờ, công tác nâng cao trình độ, nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư, DN đã được thực hiện rất thành công. Theo báo cáo cuối cùng vào tháng 12/2010 thì số lượng người được hợp phần đào tạo để tiếp cận hơn nữa SXSH, để có thể lo toan được những công việc trong DN của mình sau khi hợp phần kết thúc là trên 1.000 người tại 5 tỉnh mục tiêu và 38 tỉnh ngoài mục tiêu. Bên cạnh đó, hợp phần đã đào tạo được 3 khóa tư vấn cho hơn 100 đội trưởng tham gia. Đây là những đội trưởng đóng vai trò quan trọng trong việc tham gia triển khai những dự án trình diễn tại các tỉnh sau này.
Cùng với đào tạo cho tư vấn, các phóng viên báo đài đã được tham dự 2 khóa đào tạo về SXSH. Do đó, phóng viên đã hiểu hơn thế nào là SXSH để đưa thông tin phục vụ cho công tác quảng bá hoạt động SXSH. Với những kết quả này, chúng tôi cho rằng công tác đào tạo nâng cao nhận thức, đào tạo để nhận biết được thế nào là SXSH đã thành công. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi hoạt động SXSH hiện vẫn mang tính chất khuyến khích, cho nên đào tạo cho DN hiểu lợi ích của SXSH để chủ động tham gia là việc rất quan trọng.
Song song với việc đào tạo nâng cao nhận thức là việc triển khai các dự án trình diễn. Tính đến thời điểm này, hợp phần đã thực hiện được 57 dự án trình diễn, trong đó có 43 dự án đã hoàn thành giai đoạn 2 và phát huy hiệu quả cả về kinh tế, môi trường và xã hội…
Trung bình các DN này đã tiết kiệm được từ 10-30% nguyên nhiên vật liệu đầu vào như điện, than, nước, dầu... Tôi cho rằng đây là kết quả khá nổi bật.
Một trong những điều quan trọng nhất của hợp phần được các nhà tài trợ đánh giá là rất thành công, đó là trong quá trình triển khai, hợp phần đã cùng với Vụ Khoa học Công nghệ - Bộ Công Thương soạn thảo ra một chiến lược để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1419/QĐ-TTg tháng 9/2009 phê duyệt Chiến lược SXSH trong công nghiệp đến năm 2020. Đây là thành công lớn nhất vì nhờ quyết định này, những kết quả của hợp phần sẽ tiếp tục được duy trì, nhân rộng từ nay đến năm 2020.
Để nhân rộng những kết quả đó, thời gian tới, hợp phần sẽ chú trọng đến những công việc gì, thưa ông?
Văn bản khung đã đề ra rằng Hợp phần CPI chỉ cần triển khai được 40 dự án trình diễn, nhưng đến thời điểm này chúng tôi đã triển khai được 57 dự án, trong đó 43 DN hoàn thành giai đoạn 2, còn lại 14 DN dừng lại ở giai đoạn 1.
Thời gian tới, điều quan trọng là làm thế nào nhân rộng những mô hình đó, không chỉ dừng lại ở 5 tỉnh mục tiêu nữa. Năm 2010, chúng tôi đã triển khai công tác hỗ trợ cho các DN ngoài mục tiêu tại 38 tỉnh. Trong 38 tỉnh đó, chúng tôi đã tổ chức đào tạo được 78 khóa gồm đào tạo nâng cao nhận thức, quảng bá kết quả của hoạt động SXSH… cho gần 6.000 lượt người tham gia. Hy vọng cuối năm 2011 sẽ hoàn thành phổ biến SXSH cho tất cả các tỉnh ngoài mục tiêu.
Phải khẳng định là khi triển khai ra các tỉnh ngoài mục tiêu, chúng tôi đã nhận được sự đồng tình, hưởng ứng lớn của các sở, ban ngành. Bởi vì phần lớn thiết bị máy móc, công nghệ của DN hiện nay vẫn còn lạc hậu, vẫn còn có khả năng điều chỉnh nên SXSH hiện vẫn còn nhiều tiềm năng. Chính vì vậy trong thời gian tới, chúng tôi tập trung vào các tỉnh ngoài mục tiêu nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực, nâng cao nhận thức, đào tạo đội ngũ cán bộ tư vấn và đào tạo cho các cơ quan truyền thông để làm sao quảng bá được những kết quả SXSH mang lại, giúp các địa phương nhận thức được và triển khai đồng bộ. Mục tiêu là phấn đấu đến năm 2025 có thể triển khai phổ cập SXSH đến tất cả các DN trên cả nước.
Số lượng 57 DN tham gia SXSH sau khi Hợp phần CPI kết thúc vẫn còn quá nhỏ so với tổng số lượng DN của nước ta. Vậy thời gian tới, giải pháp nào sẽ được đề ra để tăng nhanh số lượng các DN triển khai SXSH, thưa ông?
Việc hiện tại mới có ít DN tham gia SXSH là thực tế, vì không có một nguồn tài chính của một nhà tài trợ nào có thể phủ hết toàn bộ số DN vốn rất lớn của nước ta mà kinh phí của nhà tài trợ chỉ đủ đưa ra các mô hình trình diễn. Do vậy, khi DN được CPI lựa chọn tham gia trình diễn phải đưa ra cam kết là sau khi trình diễn xong có trách nhiệm quảng bá lại cho các DN khác. Hiện nay, chúng tôi đã khuyến khích các tỉnh mục tiêu làm công tác quảng bá để tăng số lượng các DN áp dụng SXSH. Các tỉnh ngoài mục tiêu cũng được khuyến cáo tổ chức các chuyến tham quan học hỏi ở các DN đã triển khai thành công. Việc này sẽ mang lại những kết quả cao cho DN.
Để hỗ trợ các DN, nhiều sở công thương, trung tâm khuyến công, trung tâm tiết kiệm năng lượng đã bổ sung thêm chức năng hoặc thành lập thêm bộ phận SXSH ở đó. Năm 2011, hy vọng đại đa số các sở công thương sẽ có bộ phận này./.
Xin cảm ơn ông!
Thưa ông, quý I/2011, Hợp phần CPI đã kết thúc. So với mục tiêu ban đầu, những kết quả của chương trình đã được như mong đợi chưa?
Hợp phần CPI luôn được đánh giá là một trong những hợp phần hoàn thành xuất sắc những mục tiêu, nhiệm vụ mà văn bản khung đưa ra. Thành công nhất là trong suốt thời gian triển khai thực hiện từ năm 2006 đến giờ, công tác nâng cao trình độ, nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư, DN đã được thực hiện rất thành công. Theo báo cáo cuối cùng vào tháng 12/2010 thì số lượng người được hợp phần đào tạo để tiếp cận hơn nữa SXSH, để có thể lo toan được những công việc trong DN của mình sau khi hợp phần kết thúc là trên 1.000 người tại 5 tỉnh mục tiêu và 38 tỉnh ngoài mục tiêu. Bên cạnh đó, hợp phần đã đào tạo được 3 khóa tư vấn cho hơn 100 đội trưởng tham gia. Đây là những đội trưởng đóng vai trò quan trọng trong việc tham gia triển khai những dự án trình diễn tại các tỉnh sau này.
Cùng với đào tạo cho tư vấn, các phóng viên báo đài đã được tham dự 2 khóa đào tạo về SXSH. Do đó, phóng viên đã hiểu hơn thế nào là SXSH để đưa thông tin phục vụ cho công tác quảng bá hoạt động SXSH. Với những kết quả này, chúng tôi cho rằng công tác đào tạo nâng cao nhận thức, đào tạo để nhận biết được thế nào là SXSH đã thành công. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi hoạt động SXSH hiện vẫn mang tính chất khuyến khích, cho nên đào tạo cho DN hiểu lợi ích của SXSH để chủ động tham gia là việc rất quan trọng.
Song song với việc đào tạo nâng cao nhận thức là việc triển khai các dự án trình diễn. Tính đến thời điểm này, hợp phần đã thực hiện được 57 dự án trình diễn, trong đó có 43 dự án đã hoàn thành giai đoạn 2 và phát huy hiệu quả cả về kinh tế, môi trường và xã hội…
Trung bình các DN này đã tiết kiệm được từ 10-30% nguyên nhiên vật liệu đầu vào như điện, than, nước, dầu... Tôi cho rằng đây là kết quả khá nổi bật.
Một trong những điều quan trọng nhất của hợp phần được các nhà tài trợ đánh giá là rất thành công, đó là trong quá trình triển khai, hợp phần đã cùng với Vụ Khoa học Công nghệ - Bộ Công Thương soạn thảo ra một chiến lược để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1419/QĐ-TTg tháng 9/2009 phê duyệt Chiến lược SXSH trong công nghiệp đến năm 2020. Đây là thành công lớn nhất vì nhờ quyết định này, những kết quả của hợp phần sẽ tiếp tục được duy trì, nhân rộng từ nay đến năm 2020.
Để nhân rộng những kết quả đó, thời gian tới, hợp phần sẽ chú trọng đến những công việc gì, thưa ông?
Văn bản khung đã đề ra rằng Hợp phần CPI chỉ cần triển khai được 40 dự án trình diễn, nhưng đến thời điểm này chúng tôi đã triển khai được 57 dự án, trong đó 43 DN hoàn thành giai đoạn 2, còn lại 14 DN dừng lại ở giai đoạn 1.
Thời gian tới, điều quan trọng là làm thế nào nhân rộng những mô hình đó, không chỉ dừng lại ở 5 tỉnh mục tiêu nữa. Năm 2010, chúng tôi đã triển khai công tác hỗ trợ cho các DN ngoài mục tiêu tại 38 tỉnh. Trong 38 tỉnh đó, chúng tôi đã tổ chức đào tạo được 78 khóa gồm đào tạo nâng cao nhận thức, quảng bá kết quả của hoạt động SXSH… cho gần 6.000 lượt người tham gia. Hy vọng cuối năm 2011 sẽ hoàn thành phổ biến SXSH cho tất cả các tỉnh ngoài mục tiêu.
Phải khẳng định là khi triển khai ra các tỉnh ngoài mục tiêu, chúng tôi đã nhận được sự đồng tình, hưởng ứng lớn của các sở, ban ngành. Bởi vì phần lớn thiết bị máy móc, công nghệ của DN hiện nay vẫn còn lạc hậu, vẫn còn có khả năng điều chỉnh nên SXSH hiện vẫn còn nhiều tiềm năng. Chính vì vậy trong thời gian tới, chúng tôi tập trung vào các tỉnh ngoài mục tiêu nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực, nâng cao nhận thức, đào tạo đội ngũ cán bộ tư vấn và đào tạo cho các cơ quan truyền thông để làm sao quảng bá được những kết quả SXSH mang lại, giúp các địa phương nhận thức được và triển khai đồng bộ. Mục tiêu là phấn đấu đến năm 2025 có thể triển khai phổ cập SXSH đến tất cả các DN trên cả nước.
Số lượng 57 DN tham gia SXSH sau khi Hợp phần CPI kết thúc vẫn còn quá nhỏ so với tổng số lượng DN của nước ta. Vậy thời gian tới, giải pháp nào sẽ được đề ra để tăng nhanh số lượng các DN triển khai SXSH, thưa ông?
Việc hiện tại mới có ít DN tham gia SXSH là thực tế, vì không có một nguồn tài chính của một nhà tài trợ nào có thể phủ hết toàn bộ số DN vốn rất lớn của nước ta mà kinh phí của nhà tài trợ chỉ đủ đưa ra các mô hình trình diễn. Do vậy, khi DN được CPI lựa chọn tham gia trình diễn phải đưa ra cam kết là sau khi trình diễn xong có trách nhiệm quảng bá lại cho các DN khác. Hiện nay, chúng tôi đã khuyến khích các tỉnh mục tiêu làm công tác quảng bá để tăng số lượng các DN áp dụng SXSH. Các tỉnh ngoài mục tiêu cũng được khuyến cáo tổ chức các chuyến tham quan học hỏi ở các DN đã triển khai thành công. Việc này sẽ mang lại những kết quả cao cho DN.
Để hỗ trợ các DN, nhiều sở công thương, trung tâm khuyến công, trung tâm tiết kiệm năng lượng đã bổ sung thêm chức năng hoặc thành lập thêm bộ phận SXSH ở đó. Năm 2011, hy vọng đại đa số các sở công thương sẽ có bộ phận này./.
Xin cảm ơn ông!
Lan Phương thực hiện