Các chính sách thuế hỗ trợ tăng trưởng xanh
Thứ ba, 03/11/2015
Những năm qua, chính sách tài chính hỗ trợ tăng trưởng xanh ở Việt Nam đã có những đóng góp tích cực trong quá trình thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh của quốc gia. Các chính sách thuế đã góp phần quan trọng trong việc định hướng, khuyến khích tổ chức, cá nhân cân nhắc trong việc lựa chọn phương án đầu tư, công nghệ, thiết bị thân thiện với môi trường, đầu tư vào lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Những năm qua, chính sách tài chính hỗ trợ tăng trưởng xanh ở Việt Nam đã có những đóng góp tích cực trong quá trình thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh của quốc gia. Các chính sách thuế đã góp phần quan trọng trong việc định hướng, khuyến khích tổ chức, cá nhân cân nhắc trong việc lựa chọn phương án đầu tư, công nghệ, thiết bị thân thiện với môi trường, đầu tư vào lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Những chính sách thuế cho tăng trưởng xanh
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 đã đề ra 3 nhiệm vụ chiến lược, gồm: (i) Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; (ii) Xanh hóa sản xuất, khuyến khích phát triển công nghiệp xanh, nông nghiệp xanh; (iii) Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.
Để thực hiện các nhiệm vụ của Chiến lược tăng trưởng xanh, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 403/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020. Liên quan đến lĩnh vực tài chính - ngân sách Nhà nước, Bộ Tài chính được giao chủ trì triển khai 2/66 hành động tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020, bao gồm: (i) Hình thành khung chính sách tài chính tăng trưởng xanh (Hành động số 3); (ii) Chi tiêu công theo tiêu chuẩn xanh (Hành động số 64). Các chính sách thuế, phí từng bước được hoàn thiện theo hướng chú trọng khuyến khích đầu tư, sản xuất theo công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường và hỗ trợ cho việc thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh của quốc gia. Chính sách thuế, phí bảo vệ môi trường đã góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của toàn xã hội và tạo nguồn thu để giải quyết vấn đề môi trường. Chính sách thuế tài nguyên đã trở thành công cụ quan trọng để cơ quan quản lý nhà nước tăng cường công tác quản lý, giám sát quá trình hoạt động khai thác tài nguyên theo quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên; góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của tài nguyên đối với phát triển kinh tế bền vững.
Luật Thuế bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 15/11/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012 quy định: Đối tượng chịu thuế gồm: (1) Xăng, dầu, mỡ nhờn; (2) Than đá; (3) Dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon (HCFC); (4) Túi ni lông; (5) Thuốc diệt cỏ; (6) Thuốc trừ mối; (7) Thuốc bảo quản lâm sản; (8) Thuốc khử trùng kho. Áp dụng mức thuế từ 300 đồng - 3.000 đồng/lít đối với dầu các loại và xăng; 10.000 đồng/tấn đối với than đá, than nâu, than mỡ; 40.000 đồng/kg đối với túi ni lông.
Chính sách thuế tài nguyên đã trở thành công cụ quan trọng để cơ quan quản lý nhà nước tăng cường công tác quản lý, giám sát quá trình hoạt động khai thác tài nguyên theo quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên; góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của tài nguyên đối với phát triển kinh tế bền vững. Chính sách thuế tài nguyên được áp dụng theo Luật Thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 ngày 25/11/2009 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2010). Nhìn chung, quy định về mức thuế suất đã đảm bảo nguyên tắc “tài nguyên không có khả năng tái tạo” thì áp dụng mức thuế suất cao, “tài nguyên có khả năng tái tạo” thì áp dụng mức thuế suất thấp.
Các chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng từng bước được hoàn thiện theo hướng chú trọng khuyến khích đầu tư, sản xuất theo công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng và hỗ trợ cho việc thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh của quốc gia.
Theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành, từ ngày 01/01/2014, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phổ thông là 22% (20% từ ngày 01/01/2016). Ngoài ra, chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp có sự hỗ trợ đối với tăng trưởng xanh: (i) Áp dụng thuế suất 10% đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực môi trường; thu nhập của doanh nghiệp từ trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; (ii) Áp dụng thuế suất 10% trong 15 năm đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới; sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch; phát triển công nghệ sinh học; bảo vệ môi trường. Đồng thời, doanh nghiệp được miễn thuế tối đa 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp tối đa 9 năm tiếp theo; (iii) Áp dụng thuế suất 20% trong 10 năm (kể từ ngày 01/01/2015 chuyển sang áp dụng thuế suất 17%), miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 12 năm, giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 4 năm tiếp theo đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm tiết kiệm năng lượng. Chính sách thuế tài nguyên được áp dụng theo Luật Thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 ngày 25/11/2009 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2010). Nhìn chung, quy định về mức thuế suất đã đảm bảo nguyên tắc “tài nguyên không có khả năng tái tạo” thì áp dụng mức thuế suất cao, “tài nguyên có khả năng tái tạo” thì áp dụng mức thuế suất thấp.
Giải pháp cho tăng trưởng xanh
Để thực hiện thành công Chiến lược tăng trưởng xanh đến năm 2012, Việt Nam đã và đang triển khai những hành động cụ thể góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền vững. Việc ban hành Chiến lực Tăng trưởng Xanh của Việt Nam và những hành động cụ thể trong thời gian qua, Việt Nam được đánh giá một trong số những quốc gia đi tiên phong trong khu vực về tăng trưởng xanh. Cụ thể là, Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và EU góp phần khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới và cải tiến về công nghệ, đây là yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng xanh - một trong những mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam.
Tại Việt Nam, tăng trưởng xanh chủ yếu bao gồm sản xuất và tiêu thụ bền vững, giảm phát khí thải nhà kính, xanh hóa các hoạt động của doanh nghiệp thông qua các công nghệ tiên tiến thân thiện môi trường, xây dựng cơ sở hạ tầng bền vững, và cải cách công cụ kinh tế. Hiện nay, Việt Nam đang triển khai thực hiện một số dự án cho việc thúc đẩy tăng trưởng xanh như Dự án “Hỗ trợ tăng cường năng lực và đổi mới thể chế thực hiện tăng trưởng xanh và phát triển bền vững”. Dự án này sẽ hỗ trợ thực hiện ở cấp quốc gia và cấp tỉnh để lồng ghép định hướng tăng trưởng xanh và phát triển cacbon thấp trong quá trình xây dựng kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh cấp ngành và cấp tỉnh. Đặc biệt là, Dự án này sẽ hỗ trợ Việt Nam trong một số lĩnh vực then chốt liên quan đến tăng trưởng xanh, góp phần tăng cường năng lực cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Giao thông Vận tải cũng như các địa phương trong việc thực hiện và theo dõi hiệu quả quá trình triển khai Chiến lược tăng trưởng xanh và Kế hoạch hành động của Việt Nam. Từ đó, góp phần xây dựng chính sách thúc đẩy đầu tư theo hướng tăng trưởng xanh và hỗ trợ huy động các nguồn tài chính thúc đẩy đầu tư theo hướng tăng trưởng xanh và hỗ trợ huy động các nguồn tài chính cho tăng trưởng xanh của Việt Nam.
Các chuyên gia kiến nghị cần có các giải pháp về thuế ưu đãi, có cơ chế khuyến khích hỗ trợ các ngành sản xuất kinh - doanh sử dụng công nghệ và năng lượng sạch thông qua các kênh khác như văn bản pháp lý, thủ tục, cơ chế đầu tư thuận lợi; tăng cường triển khai các chính sách, đặc biệt về thuế và tín dụng để tái cơ cấu nền kinh tế, thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng khuyến khích đổi mới, cải tiến, nâng cấp công nghệ, đa dạng hóa ngành nghề, phát triển các ngành có giá trị gia tăng cao và tiêu hao năng lượng thấp. Đó là, tăng cường triển khai các chính sách, đặc biệt về thuế và tín dụng để tái cơ cấu nền kinh tế, thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng khuyến khích đổi mới, cải tiến, nâng cấp công nghệ, đa dạng hóa ngành nghề, phát triển các ngành có giá trị gia tăng cao và tiêu hao năng lượng thấp. Phát huy hiệu quả Luật Thuế bảo vệ môi trường, hướng đến việc bảo đảm nguyên tắc bảo vệ môi trường để phát triển bền vữngvà đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngoài các chính sách tài chính, cần có cơ chế khuyến khích hỗ trợ các ngành sản xuất kinh - doanh sử dụng công nghệ và năng lượng sạch thông qua các kênh khác như văn bản pháp lý, thủ tục, cơ chế đầu tư thuận lợi. Cùng với đó là, đa dạng hóa nguồn lực, tăng cường hợp tác công tư nhằm hỗ trợ tốt hơn cho tăng trưởng xanh, nâng cao nhận thức, thực hiện các biện pháp hành chính, các công cụ kinh tế thúc đẩy lối sống, sinh hoạt và tiêu dùng thân thiện với môi trường.
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 đã đề ra 3 nhiệm vụ chiến lược, gồm: (i) Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; (ii) Xanh hóa sản xuất, khuyến khích phát triển công nghiệp xanh, nông nghiệp xanh; (iii) Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.
Để thực hiện các nhiệm vụ của Chiến lược tăng trưởng xanh, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 403/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020. Liên quan đến lĩnh vực tài chính - ngân sách Nhà nước, Bộ Tài chính được giao chủ trì triển khai 2/66 hành động tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020, bao gồm: (i) Hình thành khung chính sách tài chính tăng trưởng xanh (Hành động số 3); (ii) Chi tiêu công theo tiêu chuẩn xanh (Hành động số 64). Các chính sách thuế, phí từng bước được hoàn thiện theo hướng chú trọng khuyến khích đầu tư, sản xuất theo công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường và hỗ trợ cho việc thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh của quốc gia. Chính sách thuế, phí bảo vệ môi trường đã góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của toàn xã hội và tạo nguồn thu để giải quyết vấn đề môi trường. Chính sách thuế tài nguyên đã trở thành công cụ quan trọng để cơ quan quản lý nhà nước tăng cường công tác quản lý, giám sát quá trình hoạt động khai thác tài nguyên theo quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên; góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của tài nguyên đối với phát triển kinh tế bền vững.
Luật Thuế bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 15/11/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012 quy định: Đối tượng chịu thuế gồm: (1) Xăng, dầu, mỡ nhờn; (2) Than đá; (3) Dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon (HCFC); (4) Túi ni lông; (5) Thuốc diệt cỏ; (6) Thuốc trừ mối; (7) Thuốc bảo quản lâm sản; (8) Thuốc khử trùng kho. Áp dụng mức thuế từ 300 đồng - 3.000 đồng/lít đối với dầu các loại và xăng; 10.000 đồng/tấn đối với than đá, than nâu, than mỡ; 40.000 đồng/kg đối với túi ni lông.
Chính sách thuế tài nguyên đã trở thành công cụ quan trọng để cơ quan quản lý nhà nước tăng cường công tác quản lý, giám sát quá trình hoạt động khai thác tài nguyên theo quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên; góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của tài nguyên đối với phát triển kinh tế bền vững. Chính sách thuế tài nguyên được áp dụng theo Luật Thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 ngày 25/11/2009 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2010). Nhìn chung, quy định về mức thuế suất đã đảm bảo nguyên tắc “tài nguyên không có khả năng tái tạo” thì áp dụng mức thuế suất cao, “tài nguyên có khả năng tái tạo” thì áp dụng mức thuế suất thấp.
Các chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng từng bước được hoàn thiện theo hướng chú trọng khuyến khích đầu tư, sản xuất theo công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng và hỗ trợ cho việc thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh của quốc gia.
Theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành, từ ngày 01/01/2014, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phổ thông là 22% (20% từ ngày 01/01/2016). Ngoài ra, chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp có sự hỗ trợ đối với tăng trưởng xanh: (i) Áp dụng thuế suất 10% đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực môi trường; thu nhập của doanh nghiệp từ trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; (ii) Áp dụng thuế suất 10% trong 15 năm đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới; sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch; phát triển công nghệ sinh học; bảo vệ môi trường. Đồng thời, doanh nghiệp được miễn thuế tối đa 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp tối đa 9 năm tiếp theo; (iii) Áp dụng thuế suất 20% trong 10 năm (kể từ ngày 01/01/2015 chuyển sang áp dụng thuế suất 17%), miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 12 năm, giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 4 năm tiếp theo đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm tiết kiệm năng lượng. Chính sách thuế tài nguyên được áp dụng theo Luật Thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 ngày 25/11/2009 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2010). Nhìn chung, quy định về mức thuế suất đã đảm bảo nguyên tắc “tài nguyên không có khả năng tái tạo” thì áp dụng mức thuế suất cao, “tài nguyên có khả năng tái tạo” thì áp dụng mức thuế suất thấp.
Giải pháp cho tăng trưởng xanh
Để thực hiện thành công Chiến lược tăng trưởng xanh đến năm 2012, Việt Nam đã và đang triển khai những hành động cụ thể góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền vững. Việc ban hành Chiến lực Tăng trưởng Xanh của Việt Nam và những hành động cụ thể trong thời gian qua, Việt Nam được đánh giá một trong số những quốc gia đi tiên phong trong khu vực về tăng trưởng xanh. Cụ thể là, Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và EU góp phần khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới và cải tiến về công nghệ, đây là yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng xanh - một trong những mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam.
Tại Việt Nam, tăng trưởng xanh chủ yếu bao gồm sản xuất và tiêu thụ bền vững, giảm phát khí thải nhà kính, xanh hóa các hoạt động của doanh nghiệp thông qua các công nghệ tiên tiến thân thiện môi trường, xây dựng cơ sở hạ tầng bền vững, và cải cách công cụ kinh tế. Hiện nay, Việt Nam đang triển khai thực hiện một số dự án cho việc thúc đẩy tăng trưởng xanh như Dự án “Hỗ trợ tăng cường năng lực và đổi mới thể chế thực hiện tăng trưởng xanh và phát triển bền vững”. Dự án này sẽ hỗ trợ thực hiện ở cấp quốc gia và cấp tỉnh để lồng ghép định hướng tăng trưởng xanh và phát triển cacbon thấp trong quá trình xây dựng kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh cấp ngành và cấp tỉnh. Đặc biệt là, Dự án này sẽ hỗ trợ Việt Nam trong một số lĩnh vực then chốt liên quan đến tăng trưởng xanh, góp phần tăng cường năng lực cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Giao thông Vận tải cũng như các địa phương trong việc thực hiện và theo dõi hiệu quả quá trình triển khai Chiến lược tăng trưởng xanh và Kế hoạch hành động của Việt Nam. Từ đó, góp phần xây dựng chính sách thúc đẩy đầu tư theo hướng tăng trưởng xanh và hỗ trợ huy động các nguồn tài chính thúc đẩy đầu tư theo hướng tăng trưởng xanh và hỗ trợ huy động các nguồn tài chính cho tăng trưởng xanh của Việt Nam.
Các chuyên gia kiến nghị cần có các giải pháp về thuế ưu đãi, có cơ chế khuyến khích hỗ trợ các ngành sản xuất kinh - doanh sử dụng công nghệ và năng lượng sạch thông qua các kênh khác như văn bản pháp lý, thủ tục, cơ chế đầu tư thuận lợi; tăng cường triển khai các chính sách, đặc biệt về thuế và tín dụng để tái cơ cấu nền kinh tế, thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng khuyến khích đổi mới, cải tiến, nâng cấp công nghệ, đa dạng hóa ngành nghề, phát triển các ngành có giá trị gia tăng cao và tiêu hao năng lượng thấp. Đó là, tăng cường triển khai các chính sách, đặc biệt về thuế và tín dụng để tái cơ cấu nền kinh tế, thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng khuyến khích đổi mới, cải tiến, nâng cấp công nghệ, đa dạng hóa ngành nghề, phát triển các ngành có giá trị gia tăng cao và tiêu hao năng lượng thấp. Phát huy hiệu quả Luật Thuế bảo vệ môi trường, hướng đến việc bảo đảm nguyên tắc bảo vệ môi trường để phát triển bền vữngvà đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngoài các chính sách tài chính, cần có cơ chế khuyến khích hỗ trợ các ngành sản xuất kinh - doanh sử dụng công nghệ và năng lượng sạch thông qua các kênh khác như văn bản pháp lý, thủ tục, cơ chế đầu tư thuận lợi. Cùng với đó là, đa dạng hóa nguồn lực, tăng cường hợp tác công tư nhằm hỗ trợ tốt hơn cho tăng trưởng xanh, nâng cao nhận thức, thực hiện các biện pháp hành chính, các công cụ kinh tế thúc đẩy lối sống, sinh hoạt và tiêu dùng thân thiện với môi trường.