Thúc đẩy sự phát triển khu công nghiệp sinh thái vì sự phát triển bền vững
Thứ ba, 14/12/2021
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) đã tổ chức chuỗi hội thảo trực tuyến giới thiệu về mô hình khu công nghiệp (KCN) sinh thái và nâng cao hiệu quả sản xuất sạch hơn và cộng sinh công nghiệp tại Hà Nội.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) đã tổ chức chuỗi hội thảo trực tuyến giới thiệu về mô hình khu công nghiệp (KCN) sinh thái và nâng cao hiệu quả sản xuất sạch hơn và cộng sinh công nghiệp tại Hà Nội.
Lan tỏa mô hình KCN sinh thái trên phạm vi cả nước
Hội thảo “Giới thiệu mô hình khu công nghiệp (KCN) sinh thái tại Việt Nam” có mục tiêu giới thiệu và cập nhật khung pháp lý về mô hình KCN sinh thái tại Việt Nam. Theo ông Trần Quốc Trung, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý các khu kinh tế (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) các KCN, KKT trong phát triển kinh tế đóng vai trò mũi nhọn trong sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên thách thức hiện tại của các KCN, KKT là gây ra những áp lực không nhỏ về môi trường, đòi hỏi các biện pháp giải quyết trong thời gian tới.
Đại diện Bộ KH&ĐT cũng khẳng định các mục tiêu phát triển bền vững SDGs cần được quan tâm hơn nữa, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp. Xu hướng chuyển dịch chung của nền kinh tế thế giới là phát triển bền vững, trong đó có chuyển đổi KCN theo mô hình quản lý tiên tiến; thúc đẩy hợp tác, kinh tế chia sẻ; hình thành cụm liên kết ngành (cluster) để tối ưu hóa yếu tố sản xuất và thị trường; cân đối giữa khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường và thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn. Việt Nam cũng đang từng bước chuyển đổi mô hình phát triển, trong đó có KCN theo hướng bền vững hơn.
Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý các khu kinh tế (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Trần Quốc Trung phát biểu tại hội thảo.
Được biết, từ năm 2015 đến 2019, Bộ KH&ĐT đã phối hợp với Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) thí điểm chuyển đổi KCN truyền thống sang KCN sinh thái với sự hỗ trợ từ Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sỹ (SECO) và Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF). Sự hợp tác nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp từ chiều ngang sang chiều sâu, và thúc đẩy sự liên kết hợp tác trong sản xuất để sử dụng hiệu quả nguồn lực. Các mô hình, định hướng và cơ chế chính sách cho KCN sinh thái đã được quy định tại Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế.
Tăng cường nhận thức cho các bên liên quan
Theo ông Alessandro Flammini, chuyên gia của UNIDO, mô hình KCN sinh thái được xác định dựa trên các tiêu chí: theo khung quốc tế; quản lý và các dịch vụ cho doanh nghiệp; khái niệm, phương pháp và công cụ nhận diện và giải pháp hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn (RECP); khái niệm, phương pháp và công cụ phát hiện và thực hiện cộng sinh công nghiệp.
Lợi ích của KCN sinh thái có liên quan đến 04 đối tượng chính: doanh nghiệp trong KCN; cộng đồng địa phương; môi trường xung quanh KCN; cơ quan quản lý nhà nước và ban quản lý KCN.
KCN sinh thái bao gồm 05 cấu phần chính gồm: ban quản lý và dịch vụ tại các KCN; hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn; cộng sinh công nghiệp và cơ sở hạ tầng; hiệp lực đô thị và lực lượng lao động xung quanh; quy hoạch và phân vùng không gian.
Các chuyên gia nhấn mạnh các mô hình KCN sinh thái đem lại lợi ích to lớn cho từng quốc gia, được thể hiện ở văn bản pháp luật trong nước để các doanh nghiệp tuân thủ và có điều chỉnh phù hợp với bối cảnh thực tế. Đối với các KCN truyền thống tại Việt Nam đang chuyển đổi sang KCN sinh thái, như KCN DEEP C, KCN Hiệp Phước và KCN Trà Nóc, để xác định chính xác và thực tế, từng dự án sẽ được điều chỉnh phương án chuyển đổi cho phù hợp thực tế, từ đó xây dựng cơ hội ưu tiên đồng thời xem xét tác động để triển khai thực hiện.
Liên quan đến cộng sinh công nghiệp, các chuyên gia cho rằng mục đích của cộng sinh công nghiệp là tối đa hóa bảo tồn tài nguyên và giảm phát thải thông qua quản lý bền vững chất thải và các sản phẩm phụ giữa các ngành/công ty; cộng sinh giữa các công ty giúp hình thành các chuỗi cung ứng khả thi về mặt kinh tế, môi trường và xã hội. Một số ví dụ KCN sinh thái điển hình trên thế giới đã làm tốt vai trò cộng sinh công nghiệp là KCN Kwinana (Úc); KCN Map Ta Phut (Thái Lan); cộng sinh công nghiệp - đô thị ở Kalundborg (Đan Mạch), KCN Đông Âu-London (Nam Phi)…
Rảo cản chính trong cộng sinh công nghiệp là thiếu sự hợp tác, trao đổi, chia sẻ và giao lưu với nhau. Vì vậy vai trò của các ban quản lý KCN rất quan trọng. Các BQL sẽ giúp các doanh nghiệp kết nối với nhau để tìm ra các mối quan hệ tương tác, cùng hiệp đồng cộng sinh công nghiệp.
Dự án "Triển khai khu công nghiệp sinh thái theo hướng tiếp cận từ chương trình khu công nghiệp sinh thái toàn cầu" có thời gian hoạt động trong vòng 03 năm, từ tháng 5/2020 đến tháng 5/2023. Mục tiêu của Dự án là cải thiện hiệu quả môi trường kinh tế, xã hội của các ngành công nghiệp Việt Nam thông qua thực hiện phương pháp tiếp cận KCN sinh thái tại các KCN thí điểm được lựa chọn và nâng cao vai trò của các KCN sinh thái trong các chính sách về môi trường, công nghiệp và các ngành khác ở cấp quốc gia.
Theo Chuyên gia UNIDO Nguyễn Trâm Anh, Dự án đã xác định 03 KCN tiềm năng gồm KCN Amata, Hiệp Phước và Đình Vũ. Các KCN này sẽ được định kỳ đánh giá theo tiêu chí quy định của KCN sinh thái và khung quốc tế để đo lường mức độ chuyển đổi, mức độ hiệu quả của các doanh nghiệp và các KCN sau khi tham gia Dự án.
Để tăng cường hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, các KCN sau khi tham gia vào Dự án, Ban Quản lý Dự án chủ yếu tập trung vào các hoạt động cho các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp hạ tầng và thứ cấp để tăng cường nhận thức và cung cấp kiến thức về định hướng chuyển KCN sinh thái.
Hiện các KCN thí điểm đang thực hiện hiệu quả mạng lưới cộng sinh công nghiệp và áp dụng các kỹ thuật để chuyển đổi KCN sinh thái, tập huấn tích cực về RECP, cộng sinh công nghiệp, an toàn hóa chất, phòng ngừa ứng phó với các sự cố môi trường…
Mô hình RECP thúc đẩy sử dụng hiệu quả tài nguyên
Hội thảo tiếp theo với chủ đề nâng cao năng lực hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn (RECP) và cộng sinh công nghiệp. Tại hội thảo, Giám đốc Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) ông Đinh Mạnh Thắng giới thiệu sơ lược về RECP cho cán bộ quản lý KCN và cán bộ kỹ thuật, quản lý sản xuất của các doanh nghiệp trong KCN để hỗ trợ doanh nghiệp sử dụng tài nguyên, năng lượng hiệu quả và giảm ô nhiễm môi trường, góp phần xây dựng, phát triển KCN sinh thái điển hình của địa phương.
Theo các chuyên gia, cộng sinh công nghiệp là sự phối hợp giữa các ngành, các doanh nghiệp khác nhau nhằm sử dụng tài nguyên hiệu quả, cùng chia sẻ tài sản chung (điện, nước, hiệp đồng nguồn cung, khách hàng, sản phẩm phụ) với mục tiêu là tối đa hóa nguồn lực, đem lại lợi ích kinh tế lớn cho các bên, cộng đồng, đô thị.
RECP giải quyết ba khía cạnh bền vững chính: hiệu quả kinh tế, quản lý môi trường và đời sống xã hội. Ảnh: UNIDO.
Theo bà Nguyễn Thị Truyền, Giám đốc Trung tâm Tư vấn và Dịch vụ Tài nguyên và Môi trường (NREC) nhằm nâng cao việc sử dụng hiệu quả năng tài nguyên tại doanh nghiệp, thì phương pháp tiếp cận RECP là một hướng đi cần thiết. RECP đòi hỏi việc áp dụng liên tục các chiến lược môi trường phòng ngừa vào các quá trình, sản phẩm và dịch vụ nhằm tăng hiệu quả và giảm thiểu rủi ro đối với con người và môi trường.
RECP giải quyết ba khía cạnh bền vững riêng lẻ và đồng bộ, bao gồm: nâng cao hiệu quả kinh tế thông qua việc sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả; bảo vệ môi trường bằng cách bảo tồn tài nguyên và giảm thiểu tác môi; nâng cao đời sống xã hội bằng cách cung cấp việc làm và bảo vệ cuộc sống của người lao động và cộng đồng địa phương.
Chuyên gia nhận định hiện tại một số doanh nghiệp còn thiếu sự quan tâm đến quản lý các định mức tiêu thụ nhiên liệu, điện, nước; chưa kiểm soát tốt các quá trình sản xuất, các thiết bị phụ trợ, như: lò hơi, máy nén khí dẫn đến việc quản lý nội vi cũng chưa đạt hiệu quả; chưa thiết lập tốt các hệ thống giám sát số liệu tiêu thụ dẫn đến việc quản lý, kiểm soát và cải tiến gặp nhiều khó khăn. Do đó cơ hội của RECP nhằm giúp các doanh nghiệp tiết kiệm điện, nước, nhiên liệu có thể lên đến hơn 10%.
Được biết, từ pha trước của Dự án, các KCN thí điểm chuyển đổi sang mô hình KCN sinh thái là Khánh Phú, Gián Khẩu (Ninh Bình); Hòa Khánh (Đà Nẵng), Trà Nóc 1+2 (Cần Thơ) đã góp phần tạo lợi ích kinh tế hàng năm là khoảng 75,84 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Dự án cũng nhận được sự tham gia tích cực và chủ động của các doanh nghiệp trong việc đầu tư cải tiến quy trình quản lý và vận hành, đổi mới và ứng dụng công nghệ theo hướng sản xuất sạch hơn, giảm các nguồn gây ô nhiễm, tái sử dụng chất thải và phế liệu, sử dụng hiệu quả tài nguyên.
Về lợi ích môi trường, các doanh nghiệp tham gia áp dụng các biện pháp kỹ thuật sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn trong khuôn khổ thí điểm đã hỗ trợ doanh nghiệp tiết kiệm trên 22.000 Mwh điện mỗi năm, 600.000 m3 nước sạch, 140 Terajun nhiên liệu hóa thạch, gần 3.600 tấn hóa chất và chất thải, giảm được 32 Kt khí CO2 hàng năm.
KCN Hiệp Phước TP.HCM là một trong những đơn vị tham gia sớm vào các hoạt động chuyển đổi mô hình KCN sinh thái. Ảnh: KCN Hiệp Phước.
Chia sẻ về kinh nghiệm tham gia Dự án trong giai đoạn trước, ông Giang Ngọc Phương, Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần KCN Hiệp Phước khẳng định đây là cơ hội tốt để BQL và các doanh nghiệp trong KCN chuyển đổi sang mô hình sinh thái, bắt nhịp với xu hướng chung của thế giới. Được biết KCN Hiệp Phước có diện tích lớn nhất tại TP. Hồ Chí Minh với hơn 1.000ha. Đồng thời nắm giữ vị trí chiến lược, có cơ sở hạ tầng đồng bộ, cộng đồng doanh nghiệp phát triển bền vững và mong muốn phát triển và hội nhập sâu hơn để đưa hàng hóa đến thị trường toàn cầu.
Đại diện BQL KCN Hiệp Phước cho rằng để Dự án được thực hiện một cách hiệu quả, các đơn vị quản lý cần tổ chức liên kết, hỗ trợ cũng như đưa ra các quy định rõ ràng và khả thi đối với việc tái chế, tái sử dụng chất thải, biến chất thải của doanh nghiệp này thành nguồn nguyên liệu của các ngành sản xuất khác, và tốt nhất là trong các doanh nghiệp trong cùng một KCN; có cơ chế ưu đãi hơn về thuế đất, tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi để đầu tư sản xuất, thay đổi công nghệ, phục vụ việc chuyển đôi thành KCN sinh thái. Ông Phương cũng đề xuất được hỗ trợ khảo sát, kiểm toán năng lượng, đánh giá quy trình công nghệ nhằm giúp doanh nghiệp phát hiện được các cơ hội sản xuất sạch hơn, có khả năng cộng sinh công nghiệp giữa các doanh nghiệp trong cùng một KCN; tư vấn, đào tạo cho doanh nghiệp về nhận thức lợi ích của việc chuyển đổi sang KCN sinh thái.
Đại diện UNIDO, ông Alessandro Flammini khẳng định Dự án cam kết hỗ trợ các doanh nghiệp về kỹ thuật chuyển đổi phương thức sản xuất và tiếp cận các nguồn tài chính, quỹ tài chính xanh ở Việt Nam nhằm thực hiện các giải pháp.
Về mặt chính sách, Dự án sẽ tiếp tục hỗ trợ triển khai xây dựng Nghị định 82 sửa đổi, xây dựng các quy định về RECP và cộng sinh công nghiệp, xây dựng các chỉ số của KCN sinh thái làm cơ sở đánh giá chất lượng hoạt động cuả các KCN (các thông tin này sẽ được thu thập vào một cơ sở dữ liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Thanh Thanh