Phát triển nhiệt điện than công nghệ sạch: Để không còn là “thách thức”…
Thứ bảy, 03/11/2018
Phát triển nhiệt điện than công nghệ sạch là một phần quan trọng trong chính sách năng lượng của nhiều quốc gia. Do chi phí nhiên liệu đầu vào thấp, công suất lớn, các nhà máy nhiệt điện than đã giải quyết được “bài toán” an ninh năng lượng cho nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Phát triển nhiệt điện than công nghệ sạch là một phần quan trọng trong chính sách năng lượng của nhiều quốc gia. Do chi phí nhiên liệu đầu vào thấp, công suất lớn, các nhà máy nhiệt điện than đã giải quyết được “bài toán” an ninh năng lượng cho nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Công nghệ sạch - xu hướng của thế giới
Tại các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, EU... từ những năm 50-60 của thế kỷ trước, nhiệt điện than đã được đầu tư, phát triển và chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn điện. Đến cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, sản lượng nhiệt điện than chiếm trên 60% tổng sản lượng điện toàn cầu. Đến nay, mặc dù tỷ trọng nhiệt điện than thế giới đã giảm, nhưng sản lượng vẫn chiếm khoảng 35%- 40%. Tại các nước châu Á, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, kéo theo nhu cầu sử dụng điện tăng nhanh qua từng năm, nhiệt điện than đang chiếm tỷ trọng lớn. Tuy nhiên, phát triển nhiệt điện than hiện phải đối mặt với khá nhiều thách thức, chủ yếu xung quanh vấn đề môi trường. Vì vậy, nếu giải quyết được vấn đề công nghệ - tức là sử dụng “công nghệ sạch”, thân thiện với môi trường, nhiệt điện than hoàn toàn có thể nhận được sự đồng thuận cao từ cộng đồng xã hội.
Tại Malaysia – quốc gia đang phát triển ở Đông Nam Á, nhiệt điện than là một phần trong chính sách đa dạng hóa các nguồn năng lượng mà chính phủ nước này theo đuổi. Do làm tốt công tác quy hoạch, đẩy mạnh tuyên truyền, đặc biệt là ứng dụng công nghệ tiên tiến, Malaysia đang phát triển nhiệt điện than mà không gặp nhiều trở ngại từ cộng đồng, người dân.
Cụ thể, khu tổ hợp Manjung (thuộc công ty TNB, bang Perak – Malaysia) có 4 nhà máy nhiệt điện than, tổng công suất nguồn 3100 MW, cấp điện cho hơn 20% dân số của Malaysia. Trong đó, nhà máy Nhiệt điện Manjung 4 với công suất 1000 MW, được GE (đơn vị cung cấp thiết bị, tổng thầu thiết kế, thi công) bàn giao năm 2016. Đây là nhà máy sử dụng công nghệ siêu tới hạn đầu tiên ở Đông Nam Á. Công nghệ này giúp Manjung 4 sản xuất điện có mức phát thải khí thấp hơn 10% so với mức khí thải trung bình thế giới, đảm bảo được các yêu cầu nghiêm ngặt về môi trường. Đó là kết quả đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB).
Manjung 4- Nhà máy nhiệt điện sử dụng công nghệ siêu tới hạn đầu tiên ở Đông Nam Á
Việt Nam: Tại sao không?
Trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh, cùng với nhiệt điện, năng lượng tái tạo được Chính phủ Việt Nam ưu tiên phát triển, với tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu nguồn. Riêng với nhiệt điện than, đến năm 2030, tổng công suất dự kiến đạt khoảng 55.300 MW, chiếm khoảng 53,2% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống (tiêu thụ khoảng 129 triệu tấn than).
Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng trên thực tế, để đáp ứng tốc độ tăng trưởng điện ở mức khoảng 10%/năm và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, trong điều kiện hiện nay, phát triển nhiệt điện than ở Việt Nam là cần thiết. Theo các chuyên gia, nếu “từ chối ” nhiệt điện than, đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ đối diện nguy cơ thiếu điện trong những năm tới, khi thủy điện đã khai thác hết tiềm năng, năng lượng tái tạo có suất đầu tư quá cao và khả năng ứng dụng vẫn còn hạn chế. “Vấn đề mấu chốt là, chúng ta hướng tới đầu tư các nhà máy nhiệt điện than công nghệ sạch, thân thiện với môi trường” - Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Trần Viết Ngãi khẳng định.
Nhiều nhà máy nhiệt điện than hiện nay của Việt Nam - nhất là các nhà máy thuộc sở hữu của EVN, đang sử dụng công nghệ hiện đại không thua kém các nhà máy trong khu vực và trên thế giới, đáp ứng tốt các yêu cầu về môi trường. Trong đó, một số nhà máy đã ứng dụng công nghệ siêu tới hạn (SC), công nghệ giảm phát thải carbon ra môi trường, tiêu biểu như: Vĩnh Tân 4, Vĩnh Tân 4 mở rộng, Duyên Hải 3 mở rộng… Các nhà máy nhiệt điện đầu tư từ những giai đoạn trước, cũng đang được đầu tư bổ sung hệ thống xử lý khí thải và nâng cấp dây chuyền thiết bị, giảm tác động môi trường, đồng thời nâng cao hiệu suất các tổ máy.
Nhiều chuyên gia cho rằng, EVN đã triển khai ứng dụng công nghệ hiện đại cho các nhà máy nhiệt điện than. Tại Hội nghị bàn về phát triển nhiệt điện than với công nghệ hiệu suất cao, thân thiện môi trường vào tháng 3/2018 giữa Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Trung tâm Năng lượng Than Nhật Bản (JCOAL), đại diện JCOAL cũng đã đánh giá cao các công nghệ mà EVN đang sử dụng tại các nhà máy nhiệt điện than trực thuộc Tập đoàn. “Tuy nhiên, công nghệ đang phát triển không ngừng, từ siêu tới hạn và tiếp theo có thể là trên siêu tới hạn, cho phép các nhà máy nhiệt điện than ngày càng vận hành hợp lý hơn và sạch hơn. Theo Tiến sĩ Sacha Parneix - Tổng giám đốc Thương mại của GE’s Steam Power, các nước châu Á, trong đó có Việt Nam, hoàn toàn có thể phát triển nhiệt điện than “siêu sạch”.
Như vậy, những năm tiếp theo, nhiệt điện than vẫn đóng vai trò quan trọng, đảm bảo an ninh năng lượng toàn cầu. Cùng với việc phát triển năng lượng tái tạo, nhiệt điện than với công nghệ sạch là xu hướng chung của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, còn một số vấn đề đặt ra như, ứng dụng công nghệ càng tiên tiến, suất đầu tư càng cao, câu chuyện thu xếp vốn sẽ không đơn giản, trong khi dư luận nói chung vẫn còn lo ngại, “định kiến” với nhiệt điện than. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông nhằm đạt được sự đồng thuận của cộng đồng là rất cần thiết… Giải được “bài toán” này, phát triển nhiệt điện than công nghệ sạch sẽ không còn là “thách thức”.
Năm 2017: - Nền kinh tế toàn cầu sử dụng khoảng 8 tỷ tấn than (bình quân 1,06 tấn /người) - Việt Nam sử dụng 54,6 triệu tấn (bình quân 0,575 tấn/người) Dự báo 2035: - Mức tiêu thụ các nguồn năng lượng sơ cấp (than, dầu, khí, uranium) của thế giới: 17,455 tỷ TOE (tấn dầu quy đổi) - Tổng công suất nhiệt điện than: 2500 GW (Nguồn: IEA) EVN đang quản lý 12 nhà máy nhiệt điện than, trong đó: - Lọc bụi: Hầu hết đều sử dụng công nghệ lọc bụi tĩnh điện (ESP) hiệu suất tốt, khả năng lọc cao. - Khử lưu huỳnh trong khói than: Hầu hết sử dụng công nghệ khử SOx bằng đá vôi và nước biển, đảm bảo phát thải khí SOx đáp ứng các yêu cầu theo Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về khí thải công nghiệp nhiệt điện. - Xử lý khí Nox: Hầu hết áp dụng công nghệ hiện đại Low - NOx. - Tro, xỉ: Được các đơn vị kiểm định độc lập khẳng định là chất thải công nghiệp thông thường, không phải chất nguy hại. |
Theo TCĐL Chuyên đề Quản lý & Hội nhập