[In trang]
Thúc đẩy sản xuất sạch hơn gắn với phát triển bền vững
Thứ ba, 24/02/2015
Trong những năm gần đây, các Bộ Ban Ngành có liên quan và các phương tiện truyền thông đã tăng cường tuyên truyền về sản xuất sạch hơn và những lợi ích của nó. Ngoài ra, chương trình sản xuất sạch hơn đã được thiết lập được một mạng lưới các doanh nghiệp và tổ chức rộng khắp cùng những bài học thành công của họ. Tuy nhiên, có rất nhiều hạn chế mà khi thực hiện sản xuất sạch hơn cần được chú ý đến.

Trong những năm gần đây, các Bộ Ban Ngành có liên quan và các phương tiện truyền thông đã tăng cường tuyên truyền về sản xuất sạch hơn và những lợi ích của nó. Ngoài ra, chương trình sản xuất sạch hơn đã được thiết lập được một mạng lưới các doanh nghiệp và tổ chức rộng khắp cùng những bài học thành công của họ. Tuy nhiên, có rất nhiều hạn chế mà khi thực hiện sản xuất sạch hơn cần được chú ý đến.

Bài viết này đưa ra một số chiến lược quan trọng để thúc đẩy sản xuất sạch hơn. Ví dụ, tích hợp vào các chiến lược phát triển bền vững, đổi mới công nghệ, và công nghiệp sinh thái là chiến lược hiệu quả để cải thiện sản xuất sạch hơn. Hơn nữa, Sản xuất sạch hơn không chỉ về quy trình sản xuất sạch mà còn là thích ứng sự thay đổi của các chiến lược này để cung cấp sản phẩm và dịch vụ trong một mô hình bền vững hơn. Quan trọng nhất, sản xuất sạch hơn đòi hỏi một sự thay đổi về nhận thức và cải tiến công nghệ. Việc hạn chế năng lực để thực hiện và đánh giá tác động của các chương trình sản xuất sạch hơn và tuyên truyền nâng cao nhận thức hiện nay, dường như vẫn là một trong những thách thức quan trọng đối với các hoạt động của sản xuất sạch hơn. Do đó, sự phát triển của một hệ thống chỉ tiêu sản xuất sạch hơn và các kiến nghị về tiêu chuẩn kỹ thuật là hết sức cần thiết.

 

Sản xuất sạch hơn đã được triển khai áp dụng tại Việt Nam hơn mười năm qua. Từ năm 2002, phương pháp luận này đã được Bộ Công Thương đẩy mạnh triển khai áp dụng tại 05 tỉnh, thành phố. Đến năm 2010, hoạt động nâng cao nhận thức đã được thực hiện tại 59 tỉnh thành còn lại trên toàn quốc và bây bây giờ nó đang là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Tất cả đó là những nỗ lực không ngừng nghỉ của chính phủ để thực hiện phát triển bền vững. Một số quan niệm cho rằng sản xuất sạch hơn chỉ coi như là một quá trình tái chế chất thải, nhưng mục tiêu cao hơn của nó là để giảm phát thải, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu một cách có hệ thống trong quá trình sản xuất. Có thể nói, sản xuất sạch hơn là nền tảng của nền kinh tế tuần hoàn, xây dựng một hệ thống tiết kiệm nguồn tài nguyên và thân thiện môi trường, sản xuất sạch hơn nên là một phần thiết yếu của bất kỳ hệ thống quản lý nào tại doanh nghiệp hoặc cấp quốc gia.

 

(“Kinh tế tuần hoàn” là một mô hình tăng trưởng kinh tế lấy việc tái sử dụng tuần hoàn nguồn nguyên liệu làm trọng tâm, giảm tiêu hao nguyên liệu, nâng cao hiệu quả sản xuất và giảm tối đa ảnh hưởng môi trường.)

 

Sản xuất sạch hơn được bắt đầu như là một chiến lược quản lý môi trường tích hợp và phòng ngừa để tránh, hoặc ít nhất là giảm thiểu các tác động môi trường từ các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ, cũng như từ các quá trình sản xuất, phân phối. Trong thập kỷ qua, đã có tiến bộ đáng ghi nhận của việc đưa sản xuất sạch hơn vào các chương trình nghị sự của các ngành công nghiệp, chính phủ và cộng đồng trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Các chương trình sản xuất sạch hơn đã thành công trong việc chứng minh tiềm năng môi trường, tài chính và các lợi ích của một chiến lược quản lý môi trường phòng ngừa tích hợp cho các hoạt động sản xuất , kinh doanh.

 

Trong những năm gần đây, các Bộ, Ban, ngành có liên quan và các phương tiện truyền thông đã tăng cường tuyên truyền về sản xuất sạch hơn và những lợi ích của nó. Sau khi chính phủ đề xuất ý tưởng phát triển kinh tế chú trọng đến con người và tăng trưởng xanh, phát triển bền vững thì người dân, các tổ chức và doanh nghiệp đã nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của sản xuất sạch hơn. Đây là một cơ chế hai bên cùng có lợi. Nó bảo vệ môi trường, người tiêu dùng và người lao động đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất, lợi nhuận và khả năng cạnh tranh. Các doanh nghiệp phát thải ít hơn và có lợi nhuận cao hơn.

 

TÍCH HỢP SẢN XUẤT SẠCH HƠN VÀO CHIẾN LƯỢC BỀN VỮNG

Kể từ Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển năm 1992, khái niệm phát triển bền vững đã được coi như chiến lược toàn cầu cho một tương lai tốt đẹp hơn. Trong vài thập kỷ qua đã chứng kiến những tiến bộ đáng kể trong việc xác định được và nâng cao nhận thức một loạt các vấn đề về môi trường như: biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường toàn cầu, ô nhiễm môi trường sống và tăng dân số. Do đó, Sản xuất sạch hơn đã được coi như là một công cụ kết nối quá trình công nghiệp hóa và phát triển bền vững.

 

Trong khuôn khổ Chương trình của Liên Hợp Quốc về mô hình về tiêu thụ và sản xuất bền vững năm 1995 đã xác định tiêu thụ bền vững như "việc sử dụng hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu cơ bản và mang lại chất lượng cuộc sống tốt hơn, đồng thời giảm thiểu việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vật liệu độc hại gây phát thải và ô nhiễm môi trường để không gây nguy hiểm cho nhu cầu của các thế hệ tương lai ". Vì vậy, áp dụng sản xuất sạch hơn sẽ giúp cho việc gia tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên và giảm phát thải , giảm gánh nặng về môi trường. Trong khi đó, nguyên nhân gốc rễ của suy thoái môi trường toàn cầu là nằm trong các mô hình sản xuất và tiêu dùng không bền vững hiện nay. Thách thức trước mắt chúng ta là để định hướng lại các mô hình không bền vững bằng cách thúc đẩy một nền kinh tế tuần hoàn , bền vững bằng cách áp dụng sản xuất sạch hơn một cách toàn diện.


ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ: YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH CỦA SẢN XUẤT SẠCH HƠN


Quan trọng nhất của sản xuất sạch hơn là đòi hỏi một sự thay đổi về quan niệm và cải tiến công nghệ. Những tiến bộ trong khoa học và công nghệ mở ra những cơ hội mới và lựa chọn mới cho việc áp dụng sản xuất sạch hơn. Tuy nhiên, phương pháp tiếp cận cho sản xuất sạch hơn có thể được nhóm lại thành ba mức chủ yếu sau:


Mức 1: Giảm chất thải tại nguồn: Bằng cách quản lý nội vi, cải tiến dây chuyền sản xuất, cải tiến sản phẩm, thay đổi nguyên nhiên vật liệu.
Mức 2: Tái chế chất thải: Bằng cách tái chế trong nội bộ công ty hoặc tái chế bên ngoài bởi thuê các công ty khác thực hiện.

Mức 3: Sử dụng các nguồn tài nguyên tái tạo: Bằng cách sử dụng lại các phát thải làm nguyên liệu cho sản xuất năng lượng, nhiên liệu và hóa chất; Sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo: năng lượng mặt trời, gió, thủy triều, thủy điện quy mô nhỏ.

Những cách tiếp cận này liên quan đến sự kết hợp của công nghệ (quy trình và thiết bị) và kỹ thuật (cách mà công nghệ được sử dụng). Chúng sẽ được hỗ trợ lẫn nhau trong việc áp dụng sản xuất sạch hơn. Công nghệ trong các ngành công nghiệp hiện nay hầu hết đã đầu tư trong nhiều thập kỷ với những công nghệ lạc hậu gây nhiều phát thải. Do vậy, cần tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng chuyển đổi chất thải thành sản phẩm nhiều hơn, cũng như để thay thế các hóa chất gây ô nhiễm và phát triển thêm các sản phẩm thân thiện môi trường mới.

 

Đổi mới công nghệ sẽ là một công cụ rất mạnh mẽ để đạt được sản xuất sạch hơn nếu nó được sự quan tâm thực sự của ban lãnh đạo các công ty. Hiện nay, đã có một loạt các công nghệ và các ngành liên quan đã có những nghiên cứu có thể đóng góp vào sản xuất sạch hơn. Tuy nhiên, những tiến bộ trong khoa học và công nghệ là không đủ trong quá trình tiến tới để đạt được sản xuất sạch hơn, mà các yếu tố của thị trường và các chính sách của chính phủ là hết sức quan trong để cùng với công nghệ thúc đẩy việc áp dụng công nghiệp của sản xuất sạch hơn trong công nghiệp. Do đó, một cộng đồng có các quan điểm khác nhau phải cùng thấy được lợi ích và cùng nhau thực hiện để giúp đạt được sản xuất sạch hơn. Hơn nữa, một nguyên tắc tích hợp của sản xuất sạch hơn là tập trung vào tính bền vững, là sử dụng các công nghệ sản xuất sạch hơn để thiết lập mối liên kết bền vững giữa các giai đoạn của sản xuất với tác động môi trường.

CÔNG NGHIỆP SINH THÁI – CÔNG NGHIỆP MÔI TRƯỜNG: CHIẾN LƯỢC MỚI CỦA SẢN XUẤT SẠCH HƠN

Thực tế chỉ ra rằng các công nghệ xử lý cuối đường ống đắt hơn rất nhiều so với chi phí của việc nâng cao nhận thức người dân và doanh nghiệp để ủng hộ sản xuất sạch hơn. Ở một mức độ sâu hơn, thì các chính sách chính phủ và các bộ ban ngành cần phải đạt được tư duy hệ thống bao gồm tất cả mọi yếu tố như: hệ thống xã hội, hệ thống kinh tế, hệ thống môi trường….. phụ thuộc lẫn nhau không thể tách rời. Vì vậy, sản xuất sạch hơn không phải là nhiệm vụ của duy nhất chính phủ, hoặc khu vực sản xuất tư nhân mà là nhiệm vụ của cả cộng đồng hướng tới mục tiêu xây dựng quy trình sản xuất và chiến lược kinh doanh một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, sản xuất sạch hơn có thể được áp dụng ở cấp độ của một nhóm các công ty khác nhau, khu công nghiệp, hay thậm chí là toàn bộ khu vực. Cách tiếp cận mới này nổi lên như là một khái niệm về "công nghiệp sinh thái." Mục tiêu cuối cùng của công nghiệp sinh thái là để xác định cách các hệ thống công nghiệp có thể được cơ cấu lại cho tương thích với các hệ sinh thái tự nhiên. Các hệ thống công nghiệp có thể được xem như là một loại hình nhất định của hệ sinh thái. Cũng giống như các hệ sinh thái tự nhiên, nó có thể được mô tả như phân phối vật liệu, năng lượng và các luồng thông tin. Hơn nữa, toàn bộ hệ thống công nghiệp dựa vào nguồn tài nguyên được cung cấp bởi tự nhiên, từ đó có thể nói không thể tách biệt nhau được .

 

Khái niệm về "công viên công nghiệp sinh thái - Eco-Industrial Parks " (EIPs), có nguồn gốc từ những năm đầu thập niên 1990, là những lĩnh vực mà các công ty hợp tác để tận dụng hiệu quả việc sử dụng tài nguyên thông qua thu hồi và tái sử dụng phát thải mà họ tạo ra (phát thải của một doanh nghiệp này được sử dụng như là nguyên liệu thô của doanh nghiệp khác). Câu chuyện của khu công nghiệp Kalundborg, Đan Mạch, thực sự bắt đầu vào năm 1961, với một dự án sử dụng nguồn nước mặt từ hồ Tiss cho một nhà máy lọc dầu mới để giữ gìn nguồn cung cấp nước ngầm hạn chế. Thành phố này đã nhận trách nhiệm xây dựng lại hệ thống các đường ống được tài trợ bởi các nhà máy lọc dầu. Sau đó các dự án về bảo tồn tài nguyên môi trường tại khu công nghiệp tăng dần. Đến cuối những năm 1980, các công ty nhận ra rằng họ đã có dự án hiệu quả góp phần xây dựng một điển hình của một hệ sinh thái công nghiệp mà theo thuật ngữ của họ đó là sự cộng sinh công nghiệp. Sự cộng sinh công nghiệp tại Kalundborg là một ví dụ về cách lập kế hoạch nguyên vật liệu dựa trên chiến lược hiệu quả. Không có nghi ngờ rằng, mô hình Kalundborg đã lấy cảm hứng từ tư duy mới về quản lý môi trường của các khu công nghiệp và mạng lưới sinh thái công nghiệp. Tuy nhiên, đây là một kinh nghiệm quý báu trong việc thực hiện công nghiệp sinh thái ở các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. 

 

CÁC CHIẾN LƯỢC CHÍNH ĐỂ THÚC ĐẨY SẢN XUẤT SẠCH HƠN

 

Với những nỗ lực liên tục không ngừng nghỉ để đảm bảo sự tuân thủ và nâng cao năng lực của các doanh nghiệp, cộng đồng, và chính quyền địa phương, Các chính sách phù hợp sẽ trở thành công cụ hiệu quả để thúc đẩy sản xuất sạch hơn. Sau đây sẽ là một số gợi ý cho các bên liên quan trong quá trình triển khai thực hiện:

 

Tiếp tục kết hợp sản xuất sạch hơn vào chính sách và chiến lược của Chính phủ

 

Tiếp tục lựa chọn và trình diễn các điển hình về thực hiện thành công sản xuất sạch hơn trong khuôn khổ chính sách địa phương của quốc gia. Ngoài ra, tăng cường hoạt động trong các khu vực quan trọng như khu công nghiệp nơi có khả năng nhân rộng các điển hình. Do đó, sản xuất sạch hơn cần được giới thiệu thông qua hiệu quả của các mô hình trình diễn. Sau đó, tập trung mạnh vào việc giới thiệu các phương pháp sản xuất sạch hơn, đào tạo cán bộ và thực hiện các dự án trình diễn ở cấp độ doanh nghiệp. Tiếp theo, trọng tâm chuyển sang việc hoạch định chính sách về hạn chế các phát thải nguy hại và quản lý các nguồn thải hiệu quả hay chỉ cấp phép sản xuất khi có kế hoạch triển khai sản xuất sạch hơn …..

 

Thúc đẩy tài chính cho Sản xuất sạch hơn

 

Sản xuất sạch hơn thường là kết quả tiết kiệm chi phí sản xuất một cách có hiệu quả. Một yếu tố quan trọng để mang lại nguồn tài chính, cho dù từ nguồn lực riêng của công ty, chính phủ hoặc một tổ chức tài chính, được xây dựng dựa trên nhận thức về lợi ích kinh tế của sản xuất sạch hơn đối với các chi phí gây ô nhiễm môi trường mà các doanh nghiệp và tổ chức phải trả. Nhiều công việc cần phải làm để thể hiện sự kết hợp có hiệu quả các bên liên quan như các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp, và các phương tiện truyền thông. Chính phủ cần xây dựng quy tắc và ưu đãi để khuyến khích đầu tư trong việc thực hiện sản xuất sạch hơn. Trong khi đó, cần quan tâm nhiều hơn nữa đối với các vấn đề về tài chính khi xem xét lựa chọn kỹ thuật, công nghệ tại doanh nghiệp hoặc cấp ngành.

Nghiên cứu xây dựng hệ thống các chỉ số sản xuất sạch hơn và hệ thống các tiêu chuẩn kỹ thuật hướng tới sản xuất sạch hơn.

 

Hiện nay chúng ta thiếu một bộ tiêu chuẩn đo lường, thiếu các thỏa thuận về cách thức phù hợp để đánh giá sản xuất sạch hơn. Trong khi đó, Nếu không có tiêu chuẩn đo lường, các doanh nghiệp không phải chịu trách nhiệm. Các chương trình sản xuất sạch hơn đã thiết lập được một mạng lưới rộng khắp các doanh nghiệp và tổ chức. Có rất nhiều trường hợp báo cáo về những thành công của họ. Tuy nhiên, những chương trình này thiếu cách thức đo lường, số liệu thống kê sự hiệu quả. Có rất ít báo cáo công bố hàng năm về tác động môi trường của họ, hoặc chí ít là đánh giá hiệu quả của các chi phí. Các chương trình sản xuất sạch hơn hiện nay có nhiều khó khăn để xây dựng cơ sở số liệu và phân tích hiệu quả. Trong khi đó, Nếu không đo lường được đối với các chỉ tiêu tài chính hay môi trường, các tác động cụ thể của công nghệ sạch thì không thể đánh giá được hiệu quả thực sự của sản xuất sạch hơn.

 

Hỗ trợ xây dựng các chính sách ưu đãi để thực hiện sản xuất sạch hơn

 

Chính phủ có trách nhiệm tạo điều kiện cho phát triển kinh tế và cải thiện môi trường. Trong bối cảnh này, Chính phủ nên đóng vai trò chính trong việc thúc đẩy các hoạt động sản xuất sạch hơn. Các cơ chế Chính phủ hỗ trợ các chính sách ưu đãi sẽ có lợi cho việc thực hiện sản xuất sạch hơn. Các cải cách cụ thể trong các lĩnh vực năng lượng và các lĩnh vực công ích khác, thực hiện ưu đãi trực tiếp tài chính cho năng lượng, bảo vệ tài nguyên và và giảm thải vào môi trường cần được thực hiện nhiều hơn nữa. Cần thực hiện loại bỏ các khoản trợ giá cũng như thực hiện các khoản phí về môi trường đối với chất thải, nước thải, cũng như đối với khí thải và chất thải rắn, sẽ nâng cao hiệu quả và sẽ tăng thêm các nguồn tài chính cho sản xuất sạch hơn.

Tập trung vào các ngành dịch vụ

 

Các chuyên gia chỉ ra rằng, các hoạt động sản xuất sạch hơn hiện nay đã tập trung vào các mặt của hệ thống sản xuất hiện có. Sự tập trung này nên được mở rộng để bao gồm cả lĩnh vực dịch vụ. Chuyển đổi nhận thức cho việc mua hàng hóa như một thước đo của sự giàu có, sung túc thì nên được thay thế bằng các cách thức dựa trên sự hài lòng về chất lượng, tiện ích và hiệu suất sử dụng, từ đó sẽ giúp thay đổi phương thức sản xuất để tạo ra các sản phẩm xanh thân thiện với môi trường.

THAY ĐỔI TẦM NHÌN VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN SẢN XUẤT SẠCH HƠN

 

Nói chung, có hai thách thức lớn đối với việc cải thiện các chương trình và chính sách sản xuất sạch hơn: 1) Tăng cường sự đổi mới của các chương trình sản xuất sạch hơn trong việc cải tiến công nghệ cũng như các phương pháp và các công cụ để thực hiện; 2) Mở rộng và làm sâu sắc thêm sự tham gia của các bên liên quan bao gồm chính phủ, các tổ chức và doanh nghiệp, người dân trong việc thiết kế, thực hiện và quản lý các chương trình sản xuất sạch hơn.

 

Sản xuất sạch hơn cần phải được thể chế hoá bằng cách tích hợp nó với ISO 14000, ISO 50001 … và các hệ thống quản lý bền vững khác. Cần chú trọng cả hai công cụ là các quy định của pháp luật và lợi ích kinh tế. Việc bắt buộc thi hành các quy định pháp luật hiện hành đã được thực hiện ở nhiều quốc gia. Công cụ kinh tế như phí môi trường, ví dụ, yêu cầu một hệ thống giám sát để đo chính xác lượng khí thải vào môi trường, hay như việc xây dựng các hệ thống phòng ngừa và khắc phục hậu quả đối với môi trường cũng liên quan đến chi phí môi trường. Nó là điều cần thiết để đánh giá việc tác động đến môi trường của sản phẩm, quy trình sản xuất, và các công nghệ của sản xuất sạch hơn. Đo hiệu suất của công nghệ bao gồm không chỉ xem xét công nghệ đó như thế nào mà còn xem nó được sử dụng như thế nào. Các công cụ như phân tích vòng đời (LCA) đã được phát triển để đo lường các tác động đối với môi trường của các sản phẩm, các quy trình sản xuất và các công nghệ sử dụng một cách hệ thống.

 

Mặt khác, Chúng ta không thể chỉ dựa trên những cải tiến từng bước những công nghệ hiện có để đạt được sản xuất sạch hơn mà cần có những bước nhảy vọt để bắt kịp với những công nghệ mới nhất hiện nay. Thách thức đầu tiên là chuyển từ nhận thức đến hành động. Nhận thức là quan trọng, nhưng nó không giống như khi thực hiện. Chính phủ cần đóng vai trò hàng đầu trong việc thiết lập khung về quy định của pháp luật và kinh tế cho sản xuất sạch hơn cũng như tiêu thụ bền vững. Các công ty nên áp dụng rộng rãi các công cụ quản lý hiện hành và cần thiết tích hợp các yếu tố môi trường trong các quyết định sản xuất và kinh doanh. Người tiêu dùng, cho dù họ là các công ty, cá nhân, cần phải hiểu rằng sản xuất sạch và tiêu thụ bền vững cần phải thực hiện, đó là hai mặt của một vấn đề.

Trần Cảnh Hưng